Trồng và chăm sóc hoa lan

Cung cấp kiến thức về kỹ thuật trồng và chăm sóc các loại hoa lan.

Cát lan - Cattleya Labiata

Cattleya Labiata - The Queen Of The Flower, xứng đáng với tên gọi Nữ hoàng của các loài hoa bởi vẻ đẹp, hương thơm, tuổi thọ và kích cỡ hoa.

Lan Hoàng thảo - Dendrobium

Là chi lan lớn thứ hai của họ nhà lan, là loại lan phổ biến nhất trong giới chơi lan.

Địa lan - Cymbidium

Địa lan luôn làm người chơi lan hài lòng bởi vẻ đẹp cao sang của chúng

Lan Vũ nữ - Oncidium

Vũ nữ còn được gọi là Dancing Lady, một loại lan dễ trồng và chăm sóc, cho hoa đều đặn hàng năm

Lan Hồ điệp - Phalaenopsis

Lan Hồ Điệp luôn được nhiều người mua trong dịp Tết Nguyên Đán

Lan Hài - Paphiopedilum

Lan Hài luôn cho người trồng những bông hoa đẹp và lạ

Vân lan - Lan Vanda

Khả năng cần nhiều ánh sáng, chịu nắng nóng có lẽ Vanda là loài tốt nhất, có lẽ vậy nên hoa Vanda luôn có màu sắc đẹp

Lan rừng

Có nhiều điều thú vị, nơi đây nói chung về các loại lan không có trong các nhóm kia

Thứ Ba, 30 tháng 10, 2018

Đơn hành hai màu - Monomeria dichroma


Đơn hành hai màu - Monomeria dichroma

Cánh hoa hình tam giác, đỉnh nhọn, có răng hay diềm tua ở mép, kích thước 0,5 - 0,6 x 0,4 cm. Môi màu đỏ tía, hình lưỡi, có rãnh ở gốc, kích thước 0,8 - 0,9 x 0,2 cm, có nhiều nhú ở gần gốc, hai tai thuôn, có răng.

Tên Việt Nam: Đơn hành hai màu
Tên Latin: Monomeria dichroma
Đồng danh: Monomeria dichroma (Rolfe) Schlechter, 1914. Bulbophyllum dichromum Rolfe, 1907. Ione dichroma (Rolfe) Gagnep. 1933. Sunipia dichroma (Rolfe) Ban & Huyen, 1984. Bulbophyllum jacquetii Gagnep. 1930. Bulbophyllum jacquetii var. rosea Guillaum. 1960.
Họ: Phong lan Orchidaceae
Bộ: Phong lan Orchidales
Lớp (nhóm): Cây phụ sinh Epiphytically, Saprophytes

Đặc điểm nhận dạng: Lan phụ sinh trên cây gỗ, có thân rễ, đường kính 6 - 9 mm, trên đó có các bọng mọc cách nhau 5 - 6 cm. Bọng hình trứng thuôn, dài 3 - 4 cm, đường kính 1,2 - 2 cm, nhẵn, mang 1 lá ở đỉnh. Lá hình thuôn dài, dai, kích thước 14 - 16 x 2,5 - 3 cm, thót dần, có khía nông ở đỉnh; cuống lá dài 4 - 6 cm. Cụm hoa dài 25 - 40 cm, mang hoa ở nửa trên. Lá bắc hình mác, tù, kích thước 1,5 x 0,6 cm. Hoa màu vàng nhạt, đường kính 3,5 cm khi nở. Bầu dài 2,5 - 3 cm. Lá đài hình thuôn, đỉnh nhọn, kích thước 1,6 - 2,5 x 0,5 - 0,6 mm; lá đài giữa có gân phân nhánh; lá đài bên có 5 gân và phủ ít lông ở mặt ngoài. Cánh hoa hình tam giác, đỉnh nhọn, có răng hay diềm tua ở mép, kích thước 0,5 - 0,6 x 0,4 cm. Môi màu đỏ tía, hình lưỡi, có rãnh ở gốc, kích thước 0,8 - 0,9 x 0,2 cm, có nhiều nhú ở gần gốc, hai tai thuôn, có răng. Cột cao 0,4 - 0,5 cm.

Sinh học và sinh thái: Ra hoa tháng 4. Tái sinh bằng chồi và hạt. Mọc rải rác ở độ cao 700 - 2250 m.

Phân bố:

Trong nước: Cao Bằng (Trà Lĩnh, Thăng Heng), Lâm Đồng (Đà Lạt, Lang Bian, Bì Đúp, Braian, Di Linh), Khánh Hòa (Nha Trang), Kontum (Ngọc Linh, Đắk ban Khong), Trung Bộ (Nho KBang).

Thế giới: Chưa biết.

Giá trị: Loài đặc hữu của Việt Nam. Nguồn gen hiếm và độc đáo. Là đại diện của một chi rất ít loài, có giá trị làm cảnh vì hoa đẹp.

Tình trạng:

Loài có khu phân bố và nơi cư trú chia cắt. Hiện đã bị suy giảm nghiêm trọng do khai thác cũng như do chặt phá rừng hủy hoại nơi cư trú.

Phân hạng: EN B1+2b,c.

Biện pháp bảo vệ: Loài đã được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá "hiếm" (Bậc R). Đề nghị xây dựng khu bảo tồn và nhân giống Lan trong các vườn quốc gia và di chuyển một lượng cây sống có thể của loài này về khu vực bảo tồn và chăm sóc.

Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam năm 2007 - phần thực vật – trang 454.
Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net

Blog: https://vuon-lan.blogspot.com/

Lan tóc tiên trung - Holcoglossum subulifolium


Lan tóc tiên trung - Holcoglossum subulifolium

Lan sống phụ sinh, thân ngắn, lá có phiến hẹp, nhọn, có rãnh, dạng như hình ống, cong rũ xuống, dài đến 50cm. Cụm hoa chùm buông xuống, dài 30cm. Hoa trắng, cánh môi vàng ở gốc, mép có lông, cựa ngắn.

Tên Việt Nam: Lan tóc tiên trung
Tên Latin: Holcoglossum subulifolium
Đồng danh: Holcoglossum subulifolium (Rchb.f.) Christenson, Holcoglossum watsonii (Rolfe),Trần Hợp
Họ: Phong lan Orchidaceae
Bộ: Phong lan Orchidales
Lớp (nhóm): Cây phụ sinh Epiphytically, Saprophytes

Mô tả: Lan sống phụ sinh, thân ngắn, lá có phiến hẹp, nhọn, có rãnh, dạng như hình ống, cong rũ xuống, dài đến 50cm. Cụm hoa chùm buông xuống, dài 30cm. Hoa trắng, cánh môi vàng ở gốc, mép có lông, cựa ngắn.

Phân bố: Cây mọc ở miền Trung: Quảng Trị, Nha Trang, lên Tây Nguyên : Gia Lai, Kontum, Lâm Đồng và phân bố ở Thái Lan, Mianma.

Tài liệu dẫn: Phong lan Việt Nam - Trần Hợp - trang 140.
Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net

Lan tóc tiên đà lạt - Holcoglossum amesianum


Lan tóc tiên đà lạt - Holcoglossum amesianum

Lan sống phụ sinh, thân ngắn mập. Lá hình giải hẹp, nhọn, cứng dài 20cm. Cụm hoa chùm thẳng, dài 20 - 60cm, cuống chung có đốm nâu đỏ. Hoa lớn, màu trắng, cánh môi đỏ tím có sọc tím ở giữa, thùy bên màu trắng.



Tên Việt Nam: Lan tóc tiên đà lạt
Tên Latin: Holcoglossum amesianum
Đồng danh: Holcoglossum amesianum (Rchb.f.) Christenson, Vanda amesiana Rchb. F
Họ: Phong lan Orchidaceae
Bộ: Phong lan Orchidales
Lớp (nhóm): Cây phụ sinh Epiphytically, Saprophytes.

Mô tả: Lan sống phụ sinh, thân ngắn mập. Lá hình giải hẹp, nhọn, cứng dài 20cm. Cụm hoa chùm thẳng, dài 20 - 60cm, cuống chung có đốm nâu đỏ. Hoa lớn, màu trắng, cánh môi đỏ tím có sọc tím ở giữa, thùy bên màu trắng.

Phân bố: Cây mọc ở Đà Lạt (Lâm Đồng), và phân bố ở Lào, Mianma, Thái Lan, Trung Quốc.

Tài liệu dẫn: Phong lan Việt Nam - Trần Hợp - trang 140.
Lan tóc tiên - Holcoglossum amesianum (Rchb.f.) Christenson (Vanda amesiana Rchb.f) thuộc họ Lan - Orchidaceae.

Mô tả: Lan có thân to 1cm và rễ khí sinh to 8mm. Lá có phiến hẹp nhọn, cứng, dài đến 20cm. Chùm hoa đứng, dài 20-60cm, trục xanh có đốm nâu đỏ, hoa to, thơm dịu, lá bắc ngắn, phiến hoa trắng, xoan tù, môi tía, nhăn, thuỳ cạnh tròn, trắng, nhăn, thuỳ giữa cắt ngang, có sọc tím, móng hình chuỳ, cột trắng.

Bộ phận dùng: Toàn cây- Herba Holcoglossi.

Nơi sống và thu hái: Loài phân bố ở Mianma, Trung Quốc, Thái Lan, Lào và Việt Nam. Ở nước ta, cây mọc ở rừng Lâm Ðồng (Ðà Lạt).

Tính vị, tác dụng: Vị ngọt, nhạt, chát, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt tiêu viêm, hoạt huyết tán ứ, khư phong trừ thấp.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: ở Trung Quốc, cây được dùng trị sốt rét, viêm hầu họng, sưng amygdal, viêm bàng quang, đòn ngã tổn thương, đau phong thấp, gẫy xương, ngoại thương xuất huyết; có thể dùng trị cả kinh nguyệt không đều.
Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net


Lan len nhung trắng - Eria pubescens


Lan len nhung trắng - Eria pubescens

Lan sống phụ sinh, thân rễ dài, khỏe. Củ giả dạng trám dẹt, dài 8 - 10 có đốt, vẩy, đỉnh mang 2 - 4 lá. Hoa vàng nhạt hay xanh nhạt, phủ lông trắng. Cánh môi rộng màu xanh ở mép, màu trắng ở giữa.

Tên Việt Nam: Lan len nhung trắng
Tên Latin: Eria pubescens
Đồng danh: Eria pubescens (Hook.) Steud.. Eria albidotomentosa (Bl.) Lindl.; Trần Hợp 1988
Họ: Phong lan Orchidaceae
Bộ: Phong lan Orchidales
Lớp (nhóm): Cây phụ sinh Epiphytically, Saprophytes

Mô tả: Lan sống phụ sinh, thân rễ dài, khỏe. Củ giả dạng trám dẹt, dài 8 - 10 có đốt, vẩy, đỉnh mang 2 - 4 lá. Lá lớn, mềm, dài 20 - 25cm, rộng 4cm, đầu nhọn, gốc có cuống dài 2 - 3cm. Cụm hoa cứng dài 20 - 40cm, mang 8 - 15 hoa. Hoa vàng nhạt hay xanh nhạt, phủ lông trắng. Cánh môi rộng màu xanh ở mép, màu trắng ở giữa.

Phân bố: Cây mọc từ Bắc (Hà Giang, Tuyên Quang, Quảng Ninh), miền Trung (Phan Rang) lên Tây Nguyên (Lâm Đồng, Gia Lai, Kontum) đến Nam bộ (Đồng Nai) và phân bố ở Lào, Campuchia, Thái Lan, Inđônêxia, Ấn Độ, Trung Quốc.

Tài liệu dẫn: Phong lan Việt Nam - Trần Hợp - trang 115.
Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net


Hoàng thảo Hạc, Hạc lan - Dendrobium incurvum

Hoàng thảo Hạc, Hạc lan - Dendrobium incurvum

Dendrobium incurvum là một loài thực vật có hoa trong họ Lan. Loài này được Lindl. mô tả khoa học đầu tiên năm 1859.

Trong cuốn Phong Lan Việt Nam, Trần Hợp có ghi: Lan sống phụ, thân hình thoi. Lá thuôn hẹp. Cụm hoa có it hoa, mọc ở nách lá. Hoa nhỏ mấu lục nhạt, cánh môi thuôn dài nhọn, có vân mầu đỏ nâu. Cây mọc ở Bảo Lộc, Lâm Đồng.
Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net



Thứ Hai, 29 tháng 10, 2018

Lan len lào - Eria sutepensis


Lan len lào - Eria sutepensis

Lan sống phụ sinh hay ở đất. Củ giả lồi lõm 2 phía, cao 6 - 12cm, gốc có bẹ, đỉnh mang 3 - 4 lá. Lá thuôn đều, dài 9 - 25cm. Cụm hoa trên củ già non, dài 8 - 10cm. Hoa màu trắng, cánh môi dạng bầu dục màu vàng cam có 2 - 7 vạch dọc.

Tên Việt Nam: Lan len lào
Tên Latin: Eria sutepensis
Đồng danh: Eria sutepensis Rolfe et Downie, Eria pubescens auct. non Wright
Họ: Phong lan Orchidaceae
Bộ: Phong lan Orchidales
Lớp (nhóm): Cây phụ sinh Epiphytically, Saprophytes

Mô tả: Lan sống phụ sinh hay ở đất. Củ giả lồi lõm 2 phía, cao 6 - 12cm, gốc có bẹ, đỉnh mang 3 - 4 lá. Lá thuôn đều, dài 9 - 25cm. Cụm hoa trên củ già non, dài 8 - 10cm. Hoa màu trắng, cánh môi dạng bầu dục màu vàng cam có 2 - 7 vạch dọc.

Phân bố: Cây mọc ở Tây Nguyên : Gia Lai, Kontum, Lâm Đồng và phân bố ở Lào, Mianma, Thái Lan.

Tài liệu dẫn: Phong lan Việt Nam - Trần Hợp - trang 117.
Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net


Lan len giả nhung - Eriodes barbata


Lan len giả nhung - Eriodes barbata

Lan sống phụ sinh, củ giả hình cầu, đỉnh có 2 lá. Lá thuôn hẹp, dài đến 40cm, rộng 6cm, đỉnh nhọn, gốc thuôn như cuống. Cụm hoa từ gốc củ giả, dài 20cm. Hoa xếp thưa, cuống có lông đen. Cánh hoa màu đỏ, đỉnh vàng. Cánh môi màu tím đậm, nguyên.

Tên Việt Nam: Lan len giả nhung
Tên Latin: Eriodes barbata
Đồng danh: Eriodes barbata (Lindl.) Rolfe, Tainiopsis barbata (Lindl.) Schltr.
Họ: Phong lan Orchidaceae
Bộ: Phong lan Orchidales
Lớp (nhóm): Cây phụ sinh Epiphytically, Saprophytes

Mô tả: Lan sống phụ sinh, củ giả hình cầu, đỉnh có 2 lá. Lá thuôn hẹp, dài đến 40cm, rộng 6cm, đỉnh nhọn, gốc thuôn như cuống. Cụm hoa từ gốc củ giả, dài 20cm. Hoa xếp thưa, cuống có lông đen. Cánh hoa màu đỏ, đỉnh vàng. Cánh môi màu tím đậm, nguyên.

Phân bố: Cây mọc ở vùng núi Nam Trung bộ: Lâm Đồng, Gia Lai, Kontum và loài này còn phân bố ở Ấn Độ, Mianma, Thái Lan, Trung Quốc.

Tài liệu dẫn: Phong lan Việt Nam - Trần Hợp - trang 118.
Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net


Lan len chùm hẹp - Eria siamensis


Lan len chùm hẹp - Eria siamensis

Lan sống phụ sinh, củ giả hình trụ hẹp, dài 10 - 15cm, xếp sát nhau. Lá 2 chiếc ở đỉnh, hình giáo hẹp, dài 7 - 10cm, có cuống dài 1 - 1,5cm. Cụm hoa ở đỉnh, giữa 2 lá, dài 10 - 15cm, màu hồng có lông trắng, cánh môi có 3 thùy có chai ở giữa.

Tên Việt Nam: Lan len chùm hẹp
Tên Latin: Eria siamensis
Đồng danh: Eria siamensis Schltr, Eria stricta Auct. Non Lindl.;Trần Hợp 1988
Họ: Phong lan Orchidaceae
Bộ: Phong lan Orchidales
Lớp (nhóm): Cây phụ sinh Epiphytically, Saprophytes

Mô tả: Lan sống phụ sinh, củ giả hình trụ hẹp, dài 10 - 15cm, xếp sát nhau. Lá 2 chiếc ở đỉnh, hình giáo hẹp, dài 7 - 10cm, có cuống dài 1 - 1,5cm. Cụm hoa ở đỉnh, giữa 2 lá, dài 10 - 15cm. Hoa nhiều mọc dày xếp 2 dãy về một phía, màu hồng có lông trắng, cánh môi có 3 thùy có chai ở giữa.

Phân bố: Cây mọc ở Sapa (Lào Cai), Ba Vì (Hà Tây), Tây Nguyên : Kontum, Lâm Đồng, Nam bộ: Đồng Nai và phân bố ở Thái Lan.

Tài liệu dẫn: Phong lan Việt Nam - Trần Hợp - trang 116.
Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net


Lan len cỏ - Eria paniculata


Lan len cỏ - Eria paniculata

Lan sống phụ sinh, mọc bụi, thân cao 20 - 60cm, mang lá nhiều từ gốc lên ngọn, có bẹ. Lá hình giải thuôn, dài 10 - 25cm, rộng 0,5 - 2cm. Cụm hoa chùy (2 - 3 chiếc), ở đỉnh thân. Hoa nhỏ xếp dày đặc, màu xanh xám (lục nhạt), cánh môi màu tím nhạt có vạch màu đỏ.

Tên Việt Nam: Lan len cỏ
Tên Latin: Eria paniculata
Đồng danh: Eria paniculata Lindl.
Họ: Phong lan Orchidaceae
Bộ: Phong lan Orchidales
Lớp (nhóm): Cây phụ sinh Epiphytically, Saprophytes

Mô tả: Lan sống phụ sinh, mọc bụi, thân cao 20 - 60cm, mang lá nhiều từ gốc lên ngọn, có bẹ. Lá hình giải thuôn, dài 10 - 25cm, rộng 0,5 - 2cm. Cụm hoa chùy (2 - 3 chiếc), ở đỉnh thân. Hoa nhỏ xếp dày đặc, màu xanh xám (lục nhạt), cánh môi màu tím nhạt có vạch màu đỏ.

Phân bố: Cây mọc từ miền Trung: Quảng Trị, Quảng Nam - Đà Nẵng đến Tây Nguyên: Gia Lai, Komtum, Daklak, Lâm Đồng và phân bố ở Nêpal, Bhutan, Ấn Độ, Mianma, Thái Lan.

Tài liệu dẫn: Phong lan Việt Nam - Trần Hợp - trang 115.
Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net


Hoa Lan Brass


Hoa Lan Brass

Phong lan Brassavola có khoảng 20 hoa lan, và cái tên đến từ một nhà quý tộc và nhà thực vật học người Venice, Tiến sĩ Antonio Musa Brassavola (1500-1555).

Tại Việt Nam mọi người thường gọi là Brass cho dễ đọc

Tông: Epidendreae

Tông phụ: Laeliinae

Phân bố: Khoảng 20 loài ở Trung và Nam Mỹ và quần đảo Indies.

Lan biểu sinh hoặc thạch lan, thân mộc, thân rễ, bò leo. Các giả hành hẹp, hình trụ, có 1 lá ở đỉnh. Lá hẹp, dạng terete (nhọn), lá có nhiều thịt. Vòi hoa phát lộ hoặc là từ phần rễ ở gốc hoặc là từ đỉnh của giả hành, số lượng hoa không nhiều, hoa có màu ưa nhìn, thường là trắng hoặc xanh lục, có hương thơm về đêm. Các lá đài và cánh hoa phẳng, gần giống nhau, thẳng hoặc có hình mũi mác hẹp. Môi hoa không phân thùy, nhưng cuộn lại ở gốc, phần đầu phẳng. Khối phấn: 8.
Lan brass có hình ngôi sao này có nguồn gốc từ vùng Trung Mỹ và vùng nhiệt đới Nam Mỹ. Chúng sống phụ sinh mọc trên các cây khác, nhưng không sử dụng chúng như một nguồn dinh dưỡng hay nước, thay vào đó hấp thu chất dinh dưỡng của chúng từ không khí.

Đặc điểm hoa

Một nụ hoa đơn hoặc một chùm hoa ở trên cùng kèm theo những chiếc lá mọng nước, hoạt động như một thiết bị chứa nước và chất dinh dưỡng. Những bông hoa thường có nhiều màu từ xanh trắng, trắng đến vàng với các dấu màu nâu.

Để thu hút bướm đêm thích hợp cho thụ phấn, Brassavolas phát hành mùi hương cam quýt của chúng vào buổi tối.

Ánh sáng:
Brassavolas cần nhiều ánh sáng tương tự các loại cát lan. Những cây khỏe có nhu cầu ánh sáng khá mạnh, ánh sáng rực rỡ, ngay cả với ánh sáng mặt trời trực tiếp.

Nhiệt độ: Brassavola ưa nhiệt độ ấm, cây thường ra hoa nhiều hơn vào mùa hè

Tưới nước: Cần tưới nhiều nước, nhưng cần đảm bảo khô nhanh, nên chọn các giá thể gỗ, hoặc dớn cục, vỏ thông cho cây là thích hợp. Cây cần ít nước sau khi hoa, lá cây hình ống nên có thể tích nước, chịu được hạn tốt hơn các loại lan khác.


Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net


Chủ Nhật, 28 tháng 10, 2018

Lan lọng tà - Bulbophyllum retuciusculum


Lan lọng tà - Bulbophyllum retuciusculum

Lan sống phụ sinh, thân rễ mảnh, dài, củ giả xếp cách nhau 2cm, dạng thuôn nhọn, cao 2 - 4cm, gốc có nhiều xơ, đỉnh mang 1 lá. Hoa có 10 chiếc, màu đỏ vàng hay vàng đậm, cánh môi cong dày, gốc có 2 tai.

Tên Việt Nam: Lan lọng tà
Tên Latin: Bulbophyllum retuciusculum
Đồng danh: Bulbophyllum retuciusculum Rchb.f.
Họ: Phong lan Orchidaceae
Bộ: Phong lan Orchidales 
Lớp (nhóm): Cây phụ sinh Epiphytically, Saprophytes

Mô tả: Lan sống phụ sinh, thân rễ mảnh, dài, củ giả xếp cách nhau 2cm, dạng thuôn nhọn, cao 2 - 4cm, gốc có nhiều xơ, đỉnh mang 1 lá. Lá thuôn hẹp, dài 6 - 10cm, rộng 1 - 1,5cm, đỉnh nhọn. Có 2 răng nhỏ. Cụm hoa tán mọc từ gốc của củ giả, cao 7 - 15cm. Hoa có 10 chiếc, màu đỏ vàng hay vàng đậm, cánh môi cong dày, gốc có 2 tai.

Phân bố: Cây mọc từ vùng núi phía Bắc Sapa qua miền Trung (Quảng Trị, Quảng Nam - Đà Nẵng, Khánh Hòa, Lâm Đồng) đến vùng núi Nam Trung bộ (Lâm Đồng) và phân bố ở Lào, Nêpal, Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia....

Tài liệu dẫn: Phong lan Việt Nam - Trần Hợp - trang 47.
Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net


Lan Bạc diệp - Tài lan - Tainia


Lan Bạc diệp - Tài lan - Tainia

Lan Bạc diệp hay còn được gọi là Tài lan thuộc một loài lan có tên khoa học là Tainia, trên thế giới có 14 giống thì Việt Nam có 13 giống

1. Tainia acuminata Aver., sp. nov

Mô tả: Địa lan, lá dài 10-18  phân, rộng 6-10 phân, có những đốm xanh thẫm. Dò hoa cao 15-20 phân với 6-8 hoa, mọc thưa to 4-5 phân, nở vào tháng 2-3.
Nơi mọc:  Văn Bàn, Lào Cai.

Đọc toàn bài

Thứ Sáu, 26 tháng 10, 2018

Lan Len Lai Châu

Lan Len Lai Châu

Ra hoa vào tháng 4. Tái sinh bằng chồi và hạt. Mọc bám trên các cây gỗ lớn trong rừng, ở độ cao 1200 - 1400 m

Đặc điểm nhận dạng: Lan phụ sinh trên cây gỗ; thân rễ phủ các vẩy bẹ; cách vài đốt trên thân rễ là các bọng dài 5 - 6 cm, đỉnh gồm 2 - 3 đốt ngắn có 2 - 3 lá hình mác; lá cỡ 20 x 2 cm. Tận cùng thân rễ mang 1 - 2 cụm hoa. Cụm hoa dài 10 - 13 cm, phủ đầy lông dày trắng mang 10 - 12 hoa có cán rất ngắn. Lá bắc nhẵn, cỡ 16 x 7 - 8 mm. Lá đài giữa hình trứng hẹp, dài 6 - 7 mm; lá đài bên dài hơn một chút, hình tam giác đáy rộng; mặt ngoài các lá đài phủ lông len dài; cánh hoa nhẵn, dài bằng lá đài, hẹp, hình liềm, 3 gân, đỉnh tù. Môi hình tam giác, tròn đỉnh, dài bằng cánh hoa, đôi khi cong ngược, khi trải phẳng có kích thước như chiều rộng, khoảng 10 - 12 mm, rộng ra ở đỉnh, mép lượn sóng uốn cong, mặt trong phủ đầy nhú mịn, có 3 đường sống thấp chạy từ gốc với đường giữa chạy tới đỉnh. Cột cao 4,5 mm, phần chân dài hơn.

Sinh học và sinh thái: Ra hoa vào tháng 4. Tái sinh bằng chồi và hạt. Mọc bám trên các cây gỗ lớn trong rừng, ở độ cao 1200 - 1400 m.

Phân bố:

Trong nước: Mới thấy ở Lai Châu (Sang Tang Ngai).

Thế giới: Chưa biết.

Giá trị: Loài đặc hữu và nguồn gen quý của Việt Nam.

Tình trạng: Loài có khu phân bố và nơi cư trú rất hẹp. Hiện đã bị suy giảm nghiêm trọng do chặt phá rừng hủy hoại nơi cư trú.

Phân hạng: EN B1+2e.

Biện pháp bảo vệ: Loài đã được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá "hiếm" (Bậc R). Đề nghị xây dựng khu bảo tồn và nhân giống Lan trong các vườn quốc gia và di chuyển một lượng cây sống có thể của loài này về khu vực bảo tồn chăm sóc.

Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam năm 2007 - phần thực vật – trang 445.
Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net


Bạch Phượng - Pecteilis cochinchinensis


Bạch Phượng - Pecteilis cochinchinensis

Địa lan đặc hữu của Việt Nam, cao 30 phân lá 4-6 chiếc, dài 20-30 phân, rộng 2-3 phân. Chùm hoa mọc ở ngọn hoa 2-3 chiếc.

Pecteilis cochinchinensis (Gagnep.) Aver. 1988
Đồng danh: Parhabenaria cochinchinensis Gagnep.1951.
Chưa tìm thấy hình ảnh
Tên Việt: Bạch Phượng (PHH, TH).
Mô tả: Địa lan đặc hữu  của  Việt Nam, cao 30 phân lá  4-6  chiếc, dài 20-30 phân, rộng 2-3 phân. Chùm hoa mọc ở ngọn hoa 2-3 chiếc.
Nơi mọc: Đồng Nai, Tân Biên, Tậy Ninh.

Pecteilis henryi Schlechter, 1919. Xin xem  Pecteilis  susannae (Linnaeus) Rafinesque
Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net


Lan mỏ vịt - Pecteilis sagarikii

Lan mỏ vịt - Pecteilis sagarikii

Địa lan, thân và lá chết vào mùa đông nhưng mùa Xuân sẽ mọc cây mới từ củ. Lan có 2-3 lá ở sát gốc, chùm hoa cao 15-20 phân, hoa ở ngọn từ 2-10 chiếc, to 1.5-2 phân, nở vào tháng 8-9, hơi thơm.

Pecteilis sagarikii Seidenfaden 1973
Đồng danh: Habenaria sagarikii.
Tên Việt: Lan mỏ vịt.
Mô tả: Địa lan, thân và lá chết vào mùa đông nhưng mùa Xuân sẽ mọc cây mới từ củ. Lan có 2-3 lá ở sát gốc, chùm hoa cao 15-20 phân, hoa ở ngọn từ 2-10 chiếc, to 1.5-2 phân, nở vào tháng 8-9, hơi thơm.
Nơi mọc: Easup, Đắc Lắc (tin tức do Phạm dình Hiệp và Nguyễn văn Cảnh cung cấp).
Theo Hoalanvietnam.org
Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net



Thứ Tư, 24 tháng 10, 2018

Lan Hải Yến – Rhynchostylis coelestis


Lan Hải Yến – Rhynchostylis coelestis

Cũng giống như Ngọc Điểm nhưng thân lá nhỏ hơn, màu xanh mướt, lá xếp theo rãnh, giữa cong quằn xuống, hai thùy lá không đều nhau. Phát hoa đứng thẳng, hoa màu trắng , ở phần chót có màu xanh lam, môi màu xanh hoa cà. Hương thơm đài các.

Lan Hải Yến – Rhynchostylis coelestis Tên khác: Ngọc Bích, Hải Âu

Đặc điểm hình thái, sinh vật học của lan hải yến: Cũng giống như Ngọc Điểm nhưng thân lá nhỏ hơn, màu xanh mướt, lá xếp theo rãnh, giữa cong quằn xuống, hai thùy lá không đều nhau. Phát hoa đứng thẳng, hoa màu trắng , ở phần chót có màu xanh lam, môi màu xanh hoa cà. Hương thơm đài các. Lan hải yến nở hoa vào khoảng tháng 3 – tháng 5.

Yêu cầu về điều kiện sinh thái:
– Nhiệt độ: 20-25°C.
– Ánh sáng: 60%.
– Ẩm độ: 40-70%.

Cách trồng và chăm sóc lan hải yến ( nguồn: hoa lan việt nam )

Giới thiệu: Lan hải yến – Rhynchostylis coelestis có nguồn gốc ở Đông Nam Á và có thể được tìm thấy ở Thái Lan, Ấn Độ và Miến Điện. Lan hải yến có thói quen tăng trưởng giống như lan Vanda với lá cứng cáp và cong xuống dưới. Hoa màu trắng tím xuất hiện trong mùa hè và có mùi thơm. Những bông hoa của lan hải yến lâu tàn và cây dễ trồng như miễn là có đủ ánh sáng.

Ánh sáng: Ánh sáng trung bình từ 2.000 đến 4.000 foot candles.  Những tháng mùa hè nên để ở cửa sổ hướng Đông là tốt và cửa sổ hướng Nam là tốt nhất trong những tháng mùa đông. Số lượng của ánh sáng phát ra từ đèn được đo bằng lumen. Tham khảo, 100-watt đèn sợi đốt phát ra khoảng 1750 lumens. Mục đích của ánh sáng là sản xuất ra để chiếu sáng (nghĩa là, để cung cấp ánh sáng vào một bề mặt). Cường độ chiếu sáng được đo bằng foot candles (1 foot candles = 10.746 lux). Footcandle là sự chiếu sáng được đo bằng lumen phân bố trên một diện tích 1 square foot (1 square foot = 0.09290304 m2). Phần lớn nhà cửa và văn phòng làm việc, cần khoảng từ 30 – 50 foot scandles là đủ. Đối với công việc chi tiết, cụ thể thì cần khoảng 200 foot scandles là đủ. Đối với việc tìm một con đường vào ban đêm thì cần khoảng 5-20 foot candles có thể là đủ.

Nhiệt độ: Lan hải yến phát triển tốt khi nhiệt độ ấm áp, mùa đông với mức thấp nhất vào ban đêm của 58 – 64 độ F vào ban ngày và cao 70 – 80 độ F. Temps mùa hè có thể là một vài độ ấm hơn.

Độ ẩm: 50% hoặc cao hơn là lý tưởng. Lan hải yến có thể chịu được độ ẩm thấp hơn một chút trong những tháng mùa đông. Việc sử dụng các khay độ ẩm hoặc độ ẩm phòng là có lợi.

Nước: Cách tốt nhất là sử dụng nước mưa, nước cất. Nước máy với độ pH là 7,5 hoặc thấp hơn cũng có thể được sử dụng. Nước khi kết hợp các phương pháp tiếp cận khô trong quá trình ra hoa hoặc đỉnh đầu. Khi không có hoa, cho phép hỗn hợp trở nên chỉ khô giữa tưới nước. Tưới quá nhiều nước có thể gây ra một số vấn đề như thối rễ và vi khuẩn truyền nhiễm / nấm trong môi trường bầu. Một sản phẩm chúng tôi cung cấp có thể giúp những vấn đề này nếu bị bắt ở giai đoạn đầu là 27 Phyton diệt khuẩn và diệt nấm.

Phân bón cho Lan hải yến: Sử dụng GrowMore 20-10-20 Ureafree với nước máy, sử dụng với tỷ lệ 1/2 muỗng cà phê/4 lít. Nếu sử dụng GrowMore với nước mưa, nước cất thì nên thêm khoảng 5 – 10% nước máy để bổ sung thêm lượng canxi và magiê  cần thiết. Bón mỗi lần tưới nước trong mùa hè và mỗi tưới nước thứ ba trong mùa đông. Một phân bón được cung cấp là: GrowMore 6-30-30 (địa lan và hoa thúc đẩy công thức) thức ăn thực vật với canxi và magiê phụ gia).

Sự ra hoa của lan hải yến: Lan hải yến thường ra hoa trong những tháng đầu mùa hè với cuống hoa (spikes) cao 10 đến 14 inch được bao phủ bởi nhiều 2 tông màu hoa tím có hương thơm. Những bông hoa của lan hải yến to khoảng 1-inch và nở trong thời gian từ 1-3 tháng.

Thay chậu: Thay chậu trong những tháng đầu mùa xuân từ tháng Ba đến tháng Tư, sử dụng chậu đất sét và một số lượng giá thể vừa phải. Giữ cho khô ráo sau khi thay chậu.


Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net






50 Cây Lan Đặc Hữu của Việt Nam


50 Cây Lan Đặc Hữu của Việt Nam

Quê hương chúng ta đã được tạo hóa ưu đãi, ban cho cả ngàn giống lan, trong đó lại có những cây đặc hữu (endemic). Những cây lan này chỉ mọc tại Việt nam mà không có tại các quốc gia lân cận như Lào, Trung Quốc, Cam bốt hay Thái Lan.

Trong bài này chúng tôi xin trình bầy 50 cây, phần lớn dựa theo bản danh sách và hình ảnh của Karel Petrzelka. Nhưng trong danh sách của ông chỉ là những cây sưu tầm được tại miền Nam, vì vậy chúng tôi bổ túc thêm những cây mọc tại miền Trung và miền Bắc theo cuốn ‘The Orchids of Indochina ‘ ấn bản 1992 của Gunnar Seidenfaden, vì cuốn này đầy đủ hơn cả.

Hình ảnh, tài liêu tóm lược góp nhặt dưới đây do Alex & Karel Petrzelka, Leonid Averyanov, Orchids magazine, Orchids Digest, The Illustrated Encyclopedia of Orchids, The manual of cultivated Orchid Species, Home Orchid Growing, Botanica’s Orchids, Dendrobium and its relatives, Slipper Orchids of Vietnam và trên Internet.

Về phần tên Việt, chúng ta có rất ít, từ tên gọi trong dân gian (phần này chúng tôi không được am tường) cho đến 2 cuốn sách được coi là có nhiều tên nhất: ‘Cây cỏ Việt Nam’ của Phạm hoàng Hộ (dưới đây viết tắt là PHH) ấn bản 1993 và ‘Phong Lan’ của Trần Hợp (dưới đây viết tắt là TH) ấn bản 1998. Nhưng tên Việt trong hai cuốn này cũng không được thống nhất, đầy đủ và phổ thông trong dân chúng.

Xin mời quý vị hãy xem những bông hoa trân quý của quê hương. Chúng tôi biết rằng có nhiều thiếu sót, sai lầm. Thành thực kính xin quý vị vui lòng chỉ dẫn và bổ túc cho.

Đọc tiếp:  50 Cây Lan Đặc Hữu của Việt Nam

Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net

Bạc lan - Cymbidium erythroslylum

Bạc lan - Cymbidium erythroslylum

Bạc lan danh pháp hai phần: Cymbidium erythrostylum là một loài phong lan thuộc Phân họ Lan biểu sinh. Đây là loài đặc hữu của Việt Nam, cây có mặt ở các khu vực: Bà Nà, Nha Trang, Kon Tum, Đà Lạt.

Cymbidium erysthrostylum, một cây lan kiếm nhỏ, đặc hữu của Việt Nam. Một vài bạn muốn biết rõ chi tiết về cây lan đó, chúng tôi xin tóm lược các chi tiết trong sách vở tài liệu như sau.

Trong cuốn Orchid of Indochina (Hoa lan tại Đông Dương), xuất bản năm 1992, do tiến sĩ Gunnar Seidenfaden viết, trang 343 chỉ vẻn vẹn có mấy giòng vắn tắt:

Cymbidium erythrosthylum (Rolfe) Cymbidium eburneum var. parishii auct, non Hk.f: Gagnepain 1934: 4420p.p; Guillaumin 1957b;501

Occurrence: Vietnam: Lanbiang (Mitcholiitz sine no. K type) Dalat (Edward 1160b P! ; Grillet 23P; Tixier sine no P!) Mt Bana, tourane (Clemens 4328 P !) Nhatrang 16-1800m (Poilane 3465, 3563,3660,4407 P!) sine loc. (cult. Lecoufle 17216, colourphoto.C) Distribution: Endemic.

Theo giáo sư Phạm Hoàng Hộ trang 1138 trong cuốn Cây Cỏ Việt nam quyển III tập 2 xuất bản năm 1993:

Cymbidium erythrostylum Rolfe, Bạc lan: Phong lan, giả hành giữa bẹ lá, ngắn. Lá 9-10, hẹp, dài 20-60 cm, rộng 1 cm, có đốt gần đáy. Chùm dài 0.3-1cm, mang 2-3 hoa trắng, trục hường, lá đài dài 4 cm, môi có 3 thuỳ gân bằng nhau, 3 sóng to. Nang to dài 6-8 cm, rộng 3-4 cm. Vào 1500 -1600 m: Phú Khánh, Bà Na, Đà lạt.

Trong cuốn Phong Lan Việt Nam của tiến sĩ Trần Hợp xuất bản năm 1998, trang 200 ghi: Lan Kiếm trắng (Bạc lan) Cymbidium erythrostylum Rolfe.

Loài đặc hữu của Việt Nam, mọc ở miền Trung: Đà Nẵng, Nha Trang, Lâm Đồng (Langbian)

Lan sống phụ, lá thuôn giải hẹp, dài 20-60 cm, rộng 1 cm, gốc có đốt. Cụm hoa chùm dài, có 2-3 hoa lớn, màu trắng, trục mầu hồng. Cánh môi có 3 thuỳ gần bằng nhau, 3 sóng lớn, mầu trắng ngà hay xanh vàng nhạt có đốm đỏ.

Tin tức lượm lặt đó đây trên Internet cho biết: cây này do Wilhelm Micholitz tìm ra tại núi Langbian, Đà Lạt vào năm 1891 và gửi về cho ông Henry Frederick Conrad Sander một đại thương gia tại St Albans, Anh quốc, chủ nhân công ty Frederick Sanders & Son, chuyên nhập cảng hoa lan từ khắp nơi trên thế giới.

Vào khoảng năm 1995-1996 tôi mua được cây lan này tại vườn lan Sata Barbara Estates với giá khá cao vì Paul Griff nói với tôi đây là một cây đặc hữu của Việt Nam. Cây Cymbidium erythrostylum của tôi có lẽ đã được Santa Barbara Estates tuyển chọn và cấy phấn từ những cây thực tốt, rồi lấy hạt nên có 6-7 lá dài 50-60 cm rộng 1-1.5 cm. Dò hoa dài 20-30 cm mang theo 4-5 hoa cánh trắng ngần như tuyết, môi hoa viền đỏ thẫm, phía trong có mầu vàng pha những đốm đỏ. Những năm sau cây này chết dần vì Placentia, nơi tôi ở mùa hè quá nóng.

Hai năm sau, tôi lại mua 2 cây Cymbidium erythrostylum nhỏ của một vườn lan ở Solana Beach và 1 cây của Andy’s orchids, nhưng sau vài năm cây chẳng ra hoa, cứ nhỏ dần rồi cũng chết nốt.

Tại Hoa Kỳ có nhiều nơi bán cây Cym erythrostylum nhưng cánh mầu ngà chứ không trắng hẳn và mầu đỏ nhợt nhạt.

Căn cứ vào hình ảnh rải rác trên mạng, cây lan này nếu nuôi dưỡng đúng cách sẽ cho trên 10 hoa mỗi dò.

Pbase.com
 
Trong 2 năm liên tiếp, về thăm Đà Lạt chúng tôi không thấy bóng dáng cây lan này ngoại trừ trong tập hình ảnh của Thạc sĩ Nông văn Duy và Lê Trọng Châu tặng cho.


Trong phiên họp của Hội Hoa Lan Việt Nam tháng 11-2010 vừa qua anh Ngô Tạo đã mang cây lan này trưng bầy cho các Hội viên thưởng lãm nhưng không tham dự cuộc thi hoa đẹp. Cụm lan này tuy còn nhỏ nhưng cây rất khoẻ mạnh. dò hoa 8 chiếc, lá xanh mượt mà buông thõng xuống thành chậu. Nhìn hoa rồi lại mừng thầm là những cây lan đặc hữu của Việt Nam đã xuất hiện khá nhiều tại ngoại quốc và góp phần vào những kỳ hoa cho thế giới. Hy vọng những năm sắp tới, chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng nhiều đoá hoa lan hương sắc của quê nhà.

CÁCH TRỒNG

Ánh sáng vừa phải như cho Cattleya. Nhiệt độ trung bình ban ngày 75-80°F (24-27°C) ban đêm 57- 63°F (14-17°C). Ẩm độ càng cao càng tốt, tối thiểu 50%. Giữ cho lan luôn luôn ẩm ướt, đừng để quá khô nước. Kinh nghiệm cho thấy cây lan này không thích hợp cho những nơi nhiệt độ vào mùa hè lên cao tới 90°F hay 32°C.
Westminter 12-2010
BÙI XUÂN ĐÁNG
Bài viết liên qua:

Lan kiếm trắng - Cymbidium erythrostylum


Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net



Thứ Ba, 23 tháng 10, 2018

Giáng hương thơm - Aerides odorata


Giáng hương thơm - Aerides odorata

Cụm hoa dài bằng lá, cong xuống. Hoa xếp dày khá lớn. Cánh hoa màu trắng với các vệt màu tím ở đỉnh và ở mép. Cánh môi cuộn lại hình ống rộng, tận cùng bằng một cựa cong ra phía trước, chia 3 thùy. Hoa nở vào tháng 6 - 7.

Tên Việt Nam: Lan dáng hương thơm
Tên Latin: Aerides odorata
Đồng danh: Aerides odorata Lour.. Aerides suavissima Lindl.. Aerides micholitzii Rolfe
Họ: Phong lan Orchidaceae
Bộ: Phong lan Orchidales
Lớp (nhóm): Cây phụ sinh Epiphytically, Saprophytes

Mô tả: Lan sống phụ sinh, thân dài (đến 1m), mập, thẳng hay cong xuống. Lá hình giải, dài 15 - 30cm, màu xanh xám. Cụm hoa dài bằng lá, cong xuống. Hoa xếp dày khá lớn. Cánh hoa màu trắng với các vệt màu tím ở đỉnh và ở mép. Cánh môi cuộn lại hình ống rộng, tận cùng bằng một cựa cong ra phía trước, chia 3 thùy. Hoa nở vào tháng 6 - 7.

Phân bố: Cây mọc rất phổ biến từ Bắc (Tam Đảo, Yên Bái) qua miền Trung (Huế, đèo Hải Vân, Tây Nguyên) đến các tỉnh phía Nam. Vùng núi Nam Trung bộ còn có 1 chủng với cụm hoa thẳng đỉnh và hoa màu hồng tím, đẹp và thơm, mọc khá phổ biến.

Trên thế giới loài này phân bố rộng từ Mianma, Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Campuchia, Malaysia, Philippin...

Tài liệu dẫn: Phong lan Việt Nam - Trần Hợp - trang 20.
Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net

Blog: https://vuon-lan.blogspot.com/

Giới thiệu về hoa lan


Giới thiệu về hoa lan

Cấu tạo của hoa lan cực kỳ phong phú và hấp dẫn, mỗi loại có những đặc điểm chung và riêng đặc trưng cho loài, khi tìm hiểu về lan đến một lúc bạn sẽ thấy yêu loài hoa này từ lúc nào không hay.

Tên tiếng anh/Tên khoa học: Orchid/Orchidaceae
A. Đặc điểm thực vật học Hoa Lan

1. Cơ quan dinh dưỡng

1.1. Giả hành (thân giả)

Chỉ xuất hiện trên các loài lan đa thân. Giả hành (giẻ hành) là bộ phận rất cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của lan. Giả hành tuy là thân nhưng lại chứa diệp lục, đây là bộ phận dự trữ nhiều chất dinh dưỡng rất cần thiết cho sự phát triển của giả hành mới. Giả hành cũng là cơ quan dự trữ nước, do vậy cây lan có thể sống lâu hơn các loài lan đơn thân. Giả hành của các loài khác nhau thì rất khác nhau, ngay trong một loài thì cũng có sự khác nhau giữa các giống: giả hành hình thoi đối với các giống thuộc loài Cattleya hoặc giả hành hình tháp như các giống thuộc loài Cymbidium.

Đặc điểm của hoa lan đa thân và hoa lan đơn thân
1.2. Thân cây lan

Thân vảy giả có nhiều hình dáng khác nhau tùy theo giống lan. Trên thân có đốt, trên mỗi đốt mọc một nhánh lá hoặc là lá bao. Thân là cơ quan dự trữ nước và chất dinh dưỡng, mầm hoa và mầm lá đều mọc từ phần gốc của bộ phận thân rễ. Chỉ có các loài đơn thân và một số loài của giống Dendrobium và Epidendrum vừa có giả hành, vừa có thân. Các loài lan có thân thường không có cơ quan dự trữ nước và chất dinh dưỡng. Thân lan thường biến động lớn, to nhỏ khác nhau từ vài cm đến vài chục cm. Thân thường mang rễ và lá, ở nhóm đơn thân, rễ và lá thường mọc theo 2 chiều thẳng góc nhau, chồi hoa thường xuất hiện trên thân từ các nách lá.

1.3. Lá cây lan

Phiến lá thường có hình lưỡi kiếm dài, số lượng và hình dạng lá khác nhau tùy chủng loại lan khác nhau. Lá có thể mọc đối xứng hoặc không đối xứng qua gân chính, lá sát nhau ở gốc là cơ quan dinh dưỡng của hoa lan, là xưởng chế tạo chất dinh dưỡng hay xếp cách có bẹ úp lên nhau, chia đốt đều đặn, có khi thoái hóa thành vẩy hay phình lên, mọng nước, hình dạng rất khác nhau.

1.4. Căn hành(thân-rễ)


Chỉ gặp ở lan đa thân. Căn hành thật sự là thân cấp 1 và từ đó hình thành thân cấp 2, chúng có thể dài ra và mang lá được gọi là thân, hoặc bị thu ngắn lại, dày lên tạo thành giả hành. Căn hành là nơi cấu tạo của các cơ quan dinh dưỡng mới, trên căn hành có nhiều mắt sống, chết hoặc mắt ngủ, chính ở nơi giả hành tiếp xúc với căn hành có từ 1-2 mắt, mắt lá nơi hình thành nhiều rễ để nuôi sống cây lan. Do đó căn hành là bộ phận quan trọng nhất cho việc duy trì và phát triển số lượng lan theo phương pháp tách nhánh thông thường.

1.5. Rễ cây lan

Ở lan đa thân, rễ thường được hình thành từ căn hành. Ở các loài đơn thân thì rễ mọc thẳng từ thân và thường xen kẽ với lá. Rễ trên không của các loài lan phụ sinh có một trục chính bao quanh bởi mô không chặt, giống bọt biển bao quanh gọi là mạc. Mạc có thể hấp thụ hơi nước của không khí, cũng như tích trữ nước mưa và sương đọng. Do mạc che phủ lớp rễ nên lan có thể hút ẩm nhanh và giữ ẩm trong một thời gian dài.

2. Cơ quan sinh sản của cây  lan

2.1. Hoa lan

Cấu tạo của hoa lan cực kỳ phong phú và hấp dẫn, ta có thể gặp nhiều loài mà mỗi mùa chỉ có một đóa hoa nở hoặc có nhiều cụm hoa mà mỗi cụm chỉ đơm một bông. Tuy nhiên đa số các loài lan đều nở rộ nhiều hoa, tập hợp thành chùm. Phân bố ở đỉnh thân hay nách lá, gốc cuống chính, thường có lá bắc dạng vảy hay dạng mo. Cuống chính đôi khi rút ngắn lại làm cụm hoa có dạng tán giả, hay cuống chính vừa ngắn lại vừa mập, cụm hoa có dạng gần như hình đầu. Ở nhiều loài có cuống rất ngắn nên chùm hoa có dạng bông hay cuống chính vặn xoắn để hoa xếp theo đường xoắn ốc.

Hoa lan thuộc loại hoa mẫu 3. Có 6 cánh hoa, trong đó có 3 cánh hoa ngoài cùng gọi là 3 cánh dài. Nằm kề bên trong có xen kẽ với 3 cánh dài là 3 cánh hoa. Hai cánh bên thường giống nhau, cánh còn lại nằm ở phía trên hay phía dưới của hoa, thường có màu sắc và hình dạng đặc biệt khác hẳn 2 cánh kia được gọi là cánh môi. Chính cánh môi quyết định giá trị thẩm mỹ hoa lan.

Ở giữa hoa có một cái trụ nổi đó là bộ phận sinh dục của hoa. Trụ đó gồm cả 2 phần sinh dục đực và sinh dục cái nên được gọi là trục - hợp - nhụy. Phần đực nằm ở bên trên của trục, thường có nắp che chở, bên trong chứa khối phấn màu vàng. Số lượng khối phấn biến đổi từ 2, 4, 6 đến 8, có dạng thuôn hay cong lưỡi liềm, đôi khi thuôn dài có đuôi. Hoa phong lan có bầu hạ, thuôn dài kéo theo cuống. Bầu hoa lan có 3 ô gọi là 3 tâm bì (hoặc đính noãn trung trụ) hoặc đính noãn bên. Trong bầu chứa vô số các hạt nhỏ li ti gọi là tiểu noãn nằm trên 3 đường dọc theo chiều dài của 3 mép tâm bì. Sau khi thụ phấn, thụ tinh, các tiểu noãn sẽ biến đổi và phát triển thành hạt, trong khi đó bầu noãn sẽ to phát triển thành quả.

Cấu tạo hoa lan
2.2. Quả và hạt lan

Quả lan thuộc loại quả nang, nở ra theo 3-6 đường nứt dọc, có dạng từ quả cải dài đến hình trụ ngắn phình ở giữa. Khi chín quả nở ra và mảnh vỏ còn dính lạ với nhau ở phía đỉnh và phía gốc.

Hạt lan rất nhiều, nhỏ li ti. Trọng lượng toàn bộ hạt trong một quả nang chỉ bằng 1/10 đến 1/1000 miligam và hầu như không có trọng lượng.

B. Phân loại hoa lan

1. Phân loại theo hệ thống thực vật học

Cây hoa Lan (Orchid sp.) thuộc họ Phong lan (Orchidaceae); bộ lan (Orchidales); lớp một lá mầm Monocotyledoneac.

Họ phong lan phân bố rộng từ 680 vĩ Bắc đến 560 vĩ Nam, từ gần Bắc cực như Thụy Điển, Alaska, xuống tận các đảo cuối cùng ở cực Nam của Oxtralia. Tuy nhiên tập trung của họ lan chủ yếu ở các vĩ độ nhiệt đới, đặc biệt ở châu Mỹ và Đông Nam Á.

Đến nay loài người đã biết được trên 750 chi với 25.000 loài lan tự nhiên và 75.000 loài lan do kết quả chọn lọc và lai tạo.

Ở Việt Nam có hàng trăm loài lan, trong đó các loài lan sau được trồng rộng rãi trên khắp đất nước.

2. Phân loại theo đặc điểm hình thái thân cây

Căn cứ vào đặc điểm hình thái thân cây có thể chia lan làm hai nhóm:

- Nhóm đơn thân: đây là nhóm chỉ tăng trưởng về chiều cao làm cho cây dài ra mãi. Nhóm đơn thân chia thành 2 nhóm phụ:

- Nhóm phụ lá mọc đối (Sarcanthinae): nhóm này lá được xếp thành 2 hàng mọc đối nhau, lá trên một hàng xen kẽ với lá của hàng kia. Gồm các giống như: Vanda, Aerides, Phalaenopsis...

- Nhóm phụ lá dẹp thẳng hay tròn (Campylocentrinae): Papilionanthe, Luisia...

- Nhóm đa thân: đây là nhóm gồm những cây tăng trưởng liên tục. căn cứ vào cách ra hoa nhóm này chia thành 2 nhóm phụ:

- Nhóm ra hoa phía trên: Cymbidium, Dendrobium, Oncidium...

- Nhóm ra hoa ở đỉnh: Cattleya, Laelia, Epidendrum...

Ngoài ra còn có một số giống mang tính chất trung gian như: Centropetatum, Phachyphllum, Dichaea...

3. Phân loại theo môi trường sống của lan

Căn cứ vào môi trường sống của lan cũng có thể chia thành 3 loại:

Địa lan: cây lan sống trong đất hoặc trong giá thể có đặc điểm gần như đất
Phong lan: cây lan sống trong không khí.
Bán địa lan: cây lan có thể sống trong môi trường không khí và trong đất


Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net
Blog: https://vuon-lan.blogspot.com/

Thứ Hai, 22 tháng 10, 2018

Dendrobium engae


Dendrobium engae

Dendrobium engae là một loài thực vật có hoa trong họ Lan. Loài này được T.M.Reeve mô tả khoa học đầu tiên năm 1979.

Tìm thấy ở vùng cao nguyên của Papua and New Guinea với một kích thước trung bình, phát triển trong vùng khí hậu mát đến lạnh, sống phụ sinh trên các cành cây của các cây lớn ở độ cao từ 1.800 đến 3.500m so với mực nước biển. Thân cây có màu hơi vàng, mọc thẳng đứng và mập mạp, thân cây có 10 đốt giả chỉ có 3 - 5 đốt gần đỉnh mang lá, lá màu xanh đậm. Cụm hoa ở đỉnh có từ 3 đến 18 bông, hoa mở rộng, có mùi thơm và bên hoa, hoa nở vào cuối mùa xuân.
Cây cần được giảm nước tưới và bón phân vào mùa đông, cho đến khi cây bắt đầu tăng trường trở lại vào mùa xuân mới dần được bón phân và tưới nước trở lại.
Common Name The Enga Dendrobium [Province in Papua and New Guinea]

Flower Size 2.4 to 3.2" [6 to 8 cm]

Found in the highlands of Papua and New Guinea as a medium sized, cool to cold growing epiphyte on large tree branches at elevations of 1800 to 3500 meters with stout, erect, yellowish, 10 noded pseudobulbs carrying 3 to 5 apical, spreading to suberect, thick, leathery, oblong, glossy, dark green leaves with a rounded apex that blooms on a 10" [25 cm] long, apical inflorescence with 3 to 18, wide open, long-lasting, sweetly scented flowers occuring in the late spring.

Plants should be allowed to slightly dry out between waterings and fertilizer should be withheld until the initiation of new growth in the spring and then gradually reintroduced.
Theo Orchidspecies.com

Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net

Pholidota missionariorum


Pholidota missionariorum

Pholidota missionariorum là một loài thực vật có hoa trong họ Lan. Loài này được Gagnep. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1931

 
Được tìm thấy ở trung tâm và tây nam Quý Châu, Tây Bắc, Tây Bắc và Đông Nam tỉnh Vân Nam của Trung Quốc trong rừng trên cây hoặc trên những tảng đá ẩm ướt, có độ ẩm từ 1.100 đến 2.600 mét với một kích thước nhỏ, sống phụ sinh phát triển trong khu vực có khí hậu mát đến lạnh, thân bao bọc cơ bản bởi vỏ bọc da và mang 2 lá trên đỉnh, hoa vào cuối mùa xuân và một lần nữa vào mùa thu, phát hoa có từ 3 đến 9 hoa với những bông hoa nở rộ, rụng dần trong khi ra hoa.
Common Name or Meaning The Missionaries Pholidota - In China Jian Ye Shi Xian Tao

Flower Size 1.2" [3 cm]

Found in central and southwestern Guizhou, sotheastern Xizang, northwestern and southeastern Yunnan provinces of China in forests on trees or on shaded, humid rocks at elevations of 1100 to 2600 meters as a small sized, cool to cold growing epiphyte or lithophyte with ovoid to sub-cylindric pseudobulbs enveloped basally by leathery sheaths and carrying 2, apical, linear-oblanceolate, nearly broadly linear or lanceolate, thickly leathery, concave midvein and 2 lateral veins adaxially convex, all 3 raised abaxially, slightly recurved margins, subacute to long acuminate, gradually narrowing below into the petiolate base leaves that blooms in the late spring and again in the fall on an erect, arsing with the new leaves but on the base of the last mature pseduobulb, 1.2 to 3.2" [3 to 8 cm] long, 3 to 9 flowered inflorescence with ovate floral bracts that gradually fall off during flowering.

Synonyms Pholidota rupestris Hand.-Mazz. 1936
Theo Orchidspecies.com
Nơi mọc: Quan ba, Yến Minh, Hà Giang
Mô tả: Phong lan, hoa trắng lưỡi nâu nhạt Điều kiện nuôi trồng: Trồng nơi có nắng sáng hay chiều 
W = warm nóng từ 60-90F hay 15.6 - 32.2C
I = intermediate vừa từ 50-80 F hay 10 - 26.7 C  
Ẩm độ: 50-70%
S.K.Wu, LK. Han, X Gong 11-2004 , Nguyễn tiến Hiệp, Trần văn Thảo, Phạm văn Thế 12 -2004
Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net
 

Apphyllorchis pallida


Apphyllorchis pallida

Phong lan, có 3-4 lá trên ngọn. Dò hoa dài 40-50 cm mang trên trăm hoa to 1.25 cm nở vào mùa xuân hay hạ.

Tên Việt: Chưa có
Đồng danh: Acriopsis liliifolia var. auriculata
Hình: orchidspecies.com
Mô tả: Phong lan, có 3-4 lá trên ngọn. Dò hoa dài 40-50 cm mang trên trăm hoa to 1.25 cm nở vào mùa xuân hay hạ.
Nơi mọc: Thừa Thiên, Huế
Điều kiện nuôi trồng: Trồng nơi có nắng sáng hay chiều
W = warm nóng từ 60-90°F hay 15.6-32.2°C
I = intermediate vừa từ 50-80°F hay 10-26.7°C
Ẩm độ: 50-70%

Averyanov, Phan Kế Lộc, Trần văn Thảo (5-2005)
APHYLLORCHIS Blume

Tên tiếng Việt: Âm lan, Lan không lá

[Từ chữ Hy Lạp aphyllos: không có lá, và orchis: một chi họ Lan; liên hệ đến hiện tượng không có lá của các loài trong chi này; cây chỉ có vẩy ở gốc]

Lan hoại sinh ở đất, không có lá, có vẩy ở gốc. Thân rễ ngắn mang rễ; thân thẳng, đơn, có bẹ.

Cụm hoa thành chùm; lá bắc và hoa thường nhiều. Lá đài giống nhau, rời, đứng. Cánh hoa cùng dạng và cỡ như đài. Cánh môi không cuống hoặc có móng, có tai hay không ở gốc; phiến nguyên hay chia thùy. Cột dính với đầu nhụy ngắn. Bao phấn có chân ngắn, có 2 ô, dính nhau. Khối phấn 2, hình trứng, rời.

Gồm tới 30 loài phân bố rộng từ Xri Lanca và  Tây Bắc Himalaya, tới Nhật Bản và Ôxtrâylia.




Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net

Lan rừng miền Nam Việt Nam

Lan rừng miền Nam Việt Nam

Theo Helmut Bechtel (1982), hiện nay trên thế giới có hơn 700 giống lan rừng gồm 25.000 loài được xác định, chưa kể một số lượng khổng lồ lan lai không thể thống kê chính xác số lượng.

 Lan rừng phân bố trên thế giới gồm 5 khu vực:

- Châu Á nhiệt đới gồm các giông Bulbophylium, Calanthe, Coelogyne, Cymbidium, Dendrobium, Paphiopedilum, Phaius, Vanda, Phalaenopsis.

- Châu Mỹ nhiệt đới gồm các giống Brassavola, brassia, Catasetụm. Cattleya, Cynoches, Pleurothailiis, Stanhopea, Zygopetalum.

- Châu Phi gồm các giống Lissochius, Polystachiya, Ansellia, Disa

- Châu Úc gồm các giống Bulbophyllum, Calanthe, Cymbidium, Dendrobium, Eria, Phaius, Pholidota, Sarchochiius, Spatìioglottis. Riêng Tân Ghi nê trên 2.500 loài trong đó phần nhiều là Dendrobium và Bubophyllum.

- Vùng ôn đới của châu âu, Bắc Mỹ và Đống Bắc á châu gồm các giống Cypripedium. Orchis, Spiranthes.

Việt Nam là một nước Đông Nam Á nằm trong khu vực cháu Á nhiệt đới, là một trong hai khu vực tập trung nhiều lan đẹp nhất trên thế giới: châu Á và Nam Mỹ

Theo Phạm Hoàng Hộ (1993) lan rừng Việt Nam được biết gồm hơn 750 loài khác nhau, phần giới thiệu sau đây chỉ tập trung vào một số loài lan có hoa đẹp, trữ lượng nhiều, có triển vọng kinh doanh trong lĩnh vực thương mại trong tương lai.

Mỗi loài lan rừng đều yêu cầu một điều kiện sinh thái nhất định, ngoại trừ một vài loài lan có khá năng thích nghi biên độ khí hậu rộng. Thường mỗi loài dều cự ngụ tại nguyên quán thích hợp. Các nhà săn lan nhận thây rằng các vùng ven suối vùng trũng, trong rừng sâu mật độ lan cao hơn và mất hẳn khi gần trảng trống, Tuy nhiên, ơ mức độ giới hạn nào đó, càng vào sâu trong rừng mật dộ lan sẽ giảm dần, cũng phải kể một trường hợp cá biệt khác là loài Hạc đỉnh chỉ mọc trên các trảng trống trong rừng, xen kẽ vổi các loài cỏ dại.


Rừng Việt Nam có nhiều loài lan quý nhưng chưa được quản lý và khai thác một cách hợp lý. Điển hình nhất là loài lan hài Hồng Paphiopedilum Delenatii. Trước đây nhiều nước yêu cầu Việt Nam xuất khẩu sang cho họ loài lan này, nhưng giờ không tìm ra. Đến năm 1993 khi phát hiện loài lan này thì thương nhân Đài Loan đã mang về nước họ gần 3 tấn (khoáng 100.000 cây) làm Việt Nam mất hàng triệu Đôla. Đây là loài lan quí, nhưng vì chưa có chính sách quản lý nên nhiều người xuất lậu dưới dạng bán kg. Một sự thất thoát tài nguyên vô lý ! Tháng 2/1995 nhiều chủng loại lan rừng Việt Nam được trưng bày tại TOKYO (Nhật Bản) và dã gây được sự chú ý của giới lan chuyên nghiệp trên thế giới, Đầu năm 1997 Canada cũng mời Việt Nam trưng bày, và giới thiệu một số mẫu lan rừng nhưng chúng ta không tham gia được.

Với sộ lượng 500 loài của riêng các tỉnh miền Nam, chưa kể một số loài do điều kiện chiến tranh chúng ta chưa tìm kiếm được. Việt Nam cũng thuộc là một trong những nước có lan nhiều trên thế giới.

Về màu sắc, lan Việt Nam có nhiều màu từ nhạt sang dậm, màu trắng tuyền như' loài Thạch hộc (Dendrobium crumenatum), Tuyết Ngọc (Coelogyne mooreana) Màu vàng như các loài Kim Điệp (Dendrobium capillipes). Màu cam như Ascocentrum miniatum. Màu đổ như Huyết nhung (Renanthera coccinea). Màu hồng như Hồng lan (Cymbidium insigne). Màu trắng xanh như Mỹ dung dạ hương (Vanda denisoniana). Màu cà phê sữa như Hạc đỉnh (Phaius Tankervilliae) Màu nâu như Đoản kiếm (Cymbidium aloifolium) màu tím hoa cà như Giả hạc (Dendrobium anosmum) (Chỉ riêng màụ đen không xuất hiện trên bất kỳ một loài lan nào, ở Việt Nam hay trên thế giới?). Với một số lượng màu đa dạng như vậy, nếu được lai tạo lan Việt Nam sẽ có một tổ hợp về màu sắc rất phong phú. Chưa kể một số loài lan khảm có sẳn trong thiên nhiên như loài Đuôi cáo (Aerides multiflora) Ngọc điểm (Rhynchostylis gigantea), cểm báo (Hygrochilus parishii), Bò cạp (Arachnis annamensis), Long nhãn kim điệp (Pendrobium fimbriatum) Thái bình (Dendrobium pulchellum).

Về độ bền của lan, Việt Nam có nhiều giống lan rừng nở trên 2 tháng như Mỹ dung dạ hương, Huyết nhung, Hoàng lan, Hồng lan... Có loại trung bình 1- 2 tuần như Long tu (Dendrobium primulinum), Kim điệp, Đuôi cáo, Ngọc điểm... Thậm chí có loài chỉ nở một ngày như loài Thạch hộc.

Về kích thước, lan rừng Việt Nam có nhiều loài hoa bé như các loài của giống Eria. Các loài khác có kích thước trung bình. Một vải loài có kích thước lớn hơn 10cm như Hạc đỉnh, Huyết nhung, Mỹ dung dạ hương.

Về hương thơm, đây là ưu điểm chính của các loài lan Việt Nam. So với các loài lan lai, lan rừng Việt Nam có kích thước bé hơn nhưng nhờ đa sô' có mùl thơm nên vẫn hấp dễn các người ái mộ như Mỹ dung dạ hương, Hạc đỉnh, Đuôi cáo, Ngọc điểm. Thạch hộc, Thanh ngọc, Nhất điểm hồng, Giả hạc...

Lan Việt Nam là lạn của vùng nhiệt đới chịu ảnh hưởng bởi 2 mùa nắng mưa rõ rệt, vì thế đa số các loài lan mỗi năm chỉ cho một kỳ hoa, trừ loài Thạch hộc có thể nở bất kỳ trong năm. Mùa nở hoa tập trung vào 2 thời kỳ vào khoảng tháng 2 (tức tết âm lịch) và tháng 4 trong mùa nắng do sự thọ hàn và quang kỳ tính và tháng 7 tháng 8 do sự khô hạn.

Với các đặc điểm trên, lan Việt Nam là nguồn thuận lợi để lai giống lan, nếu chúng dược khai thác đúng mức trên khía cạnh di truyền học.

Có thể tạm chia lan rừng của các tỉnh miền Nam làm 4 khu vực khác nhau :

1. VÙNG MIỀN ĐÔNG NAM BỘ


Đây là vùng rừng khô đã bị khai thác nhiều lần, tầng trên còn ít gỗ quí, tầng dưới là các loại gỗ tạp mới tái sinh, trải dài từ biên giới Cambodia đến biển Đông như các vùng : Xuyên Mộc, Bình Giả, Mã Đà, Lộc Ninh...

Ớ đây lan mọc nhiều nhất trên các cây Vừng (Careya arborea) Cây Râm (Anogeissus acuminata). Rải rác lan cũng mọc trên vỏ cây các loài khác như Sến mủ (Shorea roxburghii). Sao (Hopea odorata), Thành ngạnh (Cratoxylon sp.) Bằng lăng
(Lagerstroemia sp), Dầu con rái (Dipterocapus alatus).

Vùng này tập trung các loài có hoa đẹp như :

- Đuôi cáo (Aerides miltiflora)
- Ngọc điếm (Rhynchostylis gigantea)
- Giáng Hương (Aerides fcdcata).
- Đuôi chồn (Rhynchostylis retusa).
- Hỏa hoàng (Ascocentrum miniatum)

Vùng này còn có một loài lan đất là lan Bầu rượu (Calanthe cardioglossa) có nhiều ở trên các sườn núi đá ớ Vũng Tàu, Bà Rịa, Long Khánh.

Ngoài ra ở đây còn có một sô loài khác, không có giá trị về phương diện thẩm mỹ như:

- Tổ Yến (Acriopsis indica): Xuân Lộc.
- Chân rết (Appendicula cornuta): gần suối.
- Sậy lau (Arundina graminifolia): gần suối.
- Thanh hoàng (Calanthe graminifolia): Vũng Tàu.
- Lọng lan (Bulbophylỉum eberhardtii): gần suối.
- Hoàng yến (Coelogyne massengeana): Định Quán.
- Thanh đạm xanh (Coelogyne brachyptera): gần suối.
- Đoản kiếm (Cymbidium aloifolium): khắp nơi.
- Thanh ngọc (Cymbidium ensifolum): suối.
- Bạch câu (Dendrobium crumenatum): khắp nơi.
- Nhất điểm hồng (Dendrobium draconis): khắp nơi.
- Tép dẹp (Dendrobium flabellum): gần suối.
- Ý thảo (Dendrobium gratiosissimum): khắp nơi.
- Vảy rùa (Dendrobium nathanìelis): Long Khánh
- Báo hỉ (Dendrobium secundum): khắp nơi.
- Nỉ lan (Eria globilifera): khắp nơi.
- Cành giao (Luisia psyche): Đồng Nai
- Da beo (Staurochilus fasciatus): Gần suối
- Bắp ngô (Acampe rigida): khắp nơi.


2. VÙNG TRUNG NGUYÊN

Đây là vùng có cao độ trung bình 700 - 1.000 m . Nhờ nhiệt độ thấp, khí hậu ẩm mát, địa hình nhiều đồi núi. Rừng bị khai thác nhiều lần, nếu rừng nguyên thủy bị xâm chiếm bởi các rừng tre, lồ ô, thông 2 lá, ở đây còn có rừng hỗn giao giữa rừng thông 2 lá và dầu trà beng. Điều lưu ý là lan không bao giờ mọc ở rừng tre và hiếm khi mọc ở rừng thông. Nhiều nhât ở rừng diệp loại và rải rác ở rừng hỗn giao, nhưng cây chủ vấn là cầy diệp loại.

Ớ vùng này, đa số các loài lan mọc trên các loại cây chủ yếu sau đây : như Cà chắc (Shorea obtusa), cẩm liên (Swrea siamensis) Cà gần (Terminalia tomentosa) Chò xót (Schima crenata Korth) Các loại Dẻ sồi (Quercus, lithocarpus...), Sao (Hopea odorat), Sến (Shorea roxburghii) Vừng ( Carey a aborea) các loài trâm, các loài Bằng lăng, Thành ngạnh vì có vỏ láng và thay vỏ hàng năm nên các loài lan chỉ mọc được trong các bọng cây. Một số loài phong lan và địa lan lại mọc trên đá, ven suối. Vùng này có các loài địa lan mọc trên các vùng đầm lầy, trong các thung lũng giữa các dãy núi.

Đây là vùng tập trung nhiều giống Dendrobium có hoa đẹp nhất Việt Nam. Một tập đoàn Dendrobium gồm các loài: Lụa vàng (D.heterocarpum), Hoàng phi hạc (D. signatum) Thủy tiên các loại (D.densiflorum, D.haveynum, D. farmeri, D. thyrsiflorum), Long tu (D.primulinum), Kim điệp (D.capillipes) mọc xen kẽ nhau trên cóc cây dẻ, sồi trâm trong các quần thể rừng diệp loại, dọc theo triền núi, khe suối. Loài

Nhất điểm hồng (D.draconis) trên các cây Dầu trà beng hoặc Dầu đồng, Dẻ trong các rừng hỗn giao. Loài Giả hạc (D.anosmum) nhiều nhất trên cây cà chí, đôi khi trên các cây giẻ sồi, một số ít mọc trên đá, nhiều nhất ở vùng Tam Bố (Lâm Đồng) trải dài theo hướng Tây qua biên giới tỉnh Đắc Lắc rải rác loài này cũng mọc dọc đèo Ngoạn Mục, Đơn Dương, nhưng loại ở đây trổ hoa chậm sau tết 15 ngày. Loài Long nhãn kim điệp (Dendrobium fimbriatum) hầu như chỉ mọc trên đá dọc suôi ở Di Linh, loài Ý thảo (D.gratiosissimum) mọc trêncác cây Dẻ về phía Đông hướng về Phan Rang, Phan Thiết. Loài Đại ý thảo (D.aphyllum) chưa bao giờ được tìm thấy trên độ cao khỏi đèo Bảo Lộc. Loài Vảy cá (D.lindleyi) có ở Liên Khàng và Phi vàng. Loại Thạch hoa (D.linguella) hiếm gặp, loài Huyết nhung (Renanthera imschootiaha) mọc trên các cây Dẻ sồi, gần bờ suối, hoặc trên vách đá lưng chừng xuống chân núi. Loài Bò cạp (Arachnis annamensis) mọc trên các dông núi vùng rừng rậm có nhiều ở núi vôi, loài Mỹ dung dạ hương (Vanda denisoniana) chỉ mọc từ Di Linh đến Đơn Dương, Ca-đô có nhiều, loài này mọc nhiều trên cây Keo dậu, ở các đồn điền như Phi Vàng. Loài Đuôi cáo mọc nhiều trên các cây rừng thưa từ đèo Phú Hiệp đến thác Pông-gơ. Loài Hạc đỉnh (Phaius tankervilliae) mọc ở trảng trống trong rừng vùng đầm lầy hay vùng trũng thường mọc chung với loại lan khác là Ngãi Bưởi (Dipodium paludosum) rất thơm và loài Cau diệp ngà (Spathoglottis eburhea), có nhiều từ Di Linh đến Lang Hanh, vùng Tàu, có một đồng băng dài 10 - 50 km trước đây có rất nhiều hạc đỉnh.

Hiện nay khu rừng này đã bị phá và làm lúa. Loài Vân hài (Paphiopedilum cailosum) mọc trên đất dựa suôi hoặc ven các dầm lầy với các loài Hạc đỉnh và Ngài bưởi. Loại kim hài (Paphiopedilum Villosun) mọc nhiều thành từng dám trên thân cây Dẻ, Loại Xích thử mọc trên cây li hi, từ đèo Ông Cố đến Lang Hanh. Loài Bầu rượu cò nhiều ở Phương Lâm và núi Chứa Chan. Một loài đặc biệt chỉ mọc trên cây thông là loài Bạch Hỏa hoàng (Dendrobium bellatulum)

3. VÙNG CAO NGUYÊN

Đâylà vùng có cao độ trên l.000m, nhờ khí hậu lạnh ẩm, điều hòa, địa hình đồi núi, đây là nơi ưu thế ciia rừng thông 3 lá. Tuy nhiên các loài lan chỉ xuất hiện ở các thung lũng hoặc trên sườn núi có nhiều cáy diệp loại như sồi, dẻ.

Vùng này có các loài lan được biết đến là :

Hồng lan (Cymbidium insigne) mọc trên đất thường chung với cỏ tranh trên các dòng núi. Loài Hoàng lan (Cymbidium iridioides) mọc trên các bọng cây hoặc các cồy bạch tùng (Podocarpus imbricatus) có nhiều rêu vùng rừng rậm. Loại Hổng hoàng (C.insigne x.c.iridioides) một cây lan lai tự nhiên giữa Hoàng lan và Hồng lan thường mọc trên các cây bạch tùng. Loài Bạc lan (Cymbidium erythrostylum) loài Tử cán (Cymbidium dayanum) loài Thanh lan (CymbidiUììì cyperifolium) hiếm hơn được trồng có hoa rất thơm từ Đà Lạt. Loài Tuyết ngọc (Coelogyae mooreana) và nhiều loài Coelogyne khác có nhiều ờ núi Bà Laubiang và các thác, thung lũng ẩm. Loại Nhất điểm hoàng (Dendrobium flavum) có trên các cây Sồi Dẻ ở đèo Pren và Đà Lạt.

Đọc tiếp


Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net

Chủ Nhật, 21 tháng 10, 2018

Bulbophyllum arcuatilabium


Bulbophyllum arcuatilabium

Bulbophyllum arcuatilabium là một loài phong lan thuộc chi Bulbophyllum. Đây là loài đặc hữu của Việt Nam, mới tìm thấy ở tỉnh Thanh Hóa

Bulbophyllum arcuatilabium Aver.
Đồng danh:
Hình: Chưa tìm thấy  
Tên Việt:
Nơi mọc: Thanh Hóa
Mô tả: Điều kiện nuôi trồng: Trồng nơi có nắng sáng hay chiều 
W = warm nóng từ 60-90 F hay 15.6 - 32.2 C
I = intermediate vừa từ 50-80 F hay 10 - 26.7 C  
Ẩm độ: 50-70%
Averyanov, Nguyễn Tiến Hiệp, D T Đoan (10-2003)
Thông tin liên hệ:

Website: http://Vuonhoalan.net