Trồng và chăm sóc hoa lan

Cung cấp kiến thức về kỹ thuật trồng và chăm sóc các loại hoa lan.

Cát lan - Cattleya Labiata

Cattleya Labiata - The Queen Of The Flower, xứng đáng với tên gọi Nữ hoàng của các loài hoa bởi vẻ đẹp, hương thơm, tuổi thọ và kích cỡ hoa.

Lan Hoàng thảo - Dendrobium

Là chi lan lớn thứ hai của họ nhà lan, là loại lan phổ biến nhất trong giới chơi lan.

Địa lan - Cymbidium

Địa lan luôn làm người chơi lan hài lòng bởi vẻ đẹp cao sang của chúng

Lan Vũ nữ - Oncidium

Vũ nữ còn được gọi là Dancing Lady, một loại lan dễ trồng và chăm sóc, cho hoa đều đặn hàng năm

Lan Hồ điệp - Phalaenopsis

Lan Hồ Điệp luôn được nhiều người mua trong dịp Tết Nguyên Đán

Lan Hài - Paphiopedilum

Lan Hài luôn cho người trồng những bông hoa đẹp và lạ

Vân lan - Lan Vanda

Khả năng cần nhiều ánh sáng, chịu nắng nóng có lẽ Vanda là loài tốt nhất, có lẽ vậy nên hoa Vanda luôn có màu sắc đẹp

Lan rừng

Có nhiều điều thú vị, nơi đây nói chung về các loại lan không có trong các nhóm kia

Thứ Năm, 22 tháng 12, 2016

Kỹ thuật trồng và chăm sóc hoa phong lan toàn tập

Kỹ thuật trồng và chăm sóc hoa phong lan toàn tập

Lan là cây trồng dễ chăm sóc nếu chúng ta đảm bảo được các điều kiện thuận lợi cho lan phát triển. Các yếu tố quan trọng nhất đối với lan là ánh sáng, nước tưới, độ ẩm, chậu hay giá thể và dinh dưỡng.
1. THIẾT KẾ VƯỜN

Nếu trồng lan kinh doanh cần thiết kế khung giàn lan làm bằng sắt chắc chắn, đảm bảo bền, chống gió bão. Giàn che ánh sáng dùng lưới màu xám hay xanh đen. Giàn đặt chậu làm bằng sắt, giàn treo làm bằng tầm vông hay sắt ống nước. Xung quanh vườn cần dựng hàng rào chắn chắc chắn hay rào bằng lưới B40. Thiết kế hàng trồng theo hướng Bắc Nam để vuông góc với dường đi của ánh nắng. Các chậu lan cần chọn cùng cỡ kích thước, cùng giống, cùng độ tuổi, bố trí theo từng khu vực để dễ chăm sóc. Nước tưới phải sạch, có rãnh nước dưới dàn lan để tạo khí hậu mát cho vườn lan. Nếu trồng lan để chơi trên lan can, mái hiên, sân thượng cần chú ý rằng tiểu khí hậu các nơi này thường bị khô nóng do ảnh hưởng của các kết cấu bê tông, mái tole… xung quanh. Cần đặt thêm các chậu cảnh khác như cau, mai chiếu thuỷ, nguyệt quế… để giảm bớt ảnh hưởng của các yếu tố này. Cần che bớt ánh sáng mặt trời, tránh ánh nắng chiếu toàn bộ, nhất là vào buổi chiều.

2. CHỌN GIỐNG

Loài thích hợp cho trồng lan kinh doanh là Dendrobium, Phalaenopsis, Oncidium, Vanda, Cattleya… đây là những loài ra hoa khoẻ, đẹp và bền cây, cho thu hoạch liên tục. Nếu trồng lan để chơi, giải trí nên trồng Dendrobium, Vũ nữ, Hồ điệp; đây là những loài dễ chăm sóc và ra hoa. Có thể nhân giống bằng nuôi cấy mô hay tách mầm. Điều kiện môi trường nuôi cấy mô phong lan với nhiệt độ 22-27°C, cường độ ánh sáng thích hợp, pH từ 5-5,7. Khử trùng mô bằng Starner 20 WP cấy bằng Clorox hoặc Hipocloritcalci, bổ sung các chất điều hòa sinh trưởng. Có thể tách mầm từ các chậu lan lớn, mỗi phần để 2-3 nhánh. Dùng dao sắc khử trùng bằng cồn, vết cắt cần gọn, sau cắt bôi vôi vào vết cắt cho nhanh lành sẹo.

3. CHUẨN BỊ GIÁ THỂ VÀ CHẬU

Có thể than gỗ, xơ dừa, vỏ lạc làm giá thể để trồng lan. Than gỗ nung cần chặt khúc, kích thước 1 x 2 x 3cm, than phải ngâm, rửa sạch, phơi khô. Xơ dừa xé cho tơi ngâm khoảng 1 tuần cho bớt tanin và mặn, phơi khô. Mụn dừa cũng cần rửa sạch phơi khô. Vỏ dừa chặt khúc 1 x 2 x 3 cm xử lý bằng nước vôi 5%. Chậu trồng bằng nhựa hay đất nung, kích cỡ tuỳ loại và độ tuổi.

4. KỸ THUẬT CHUYỂN CHẬU

Nếu dùng lan cấy mô thì khi lan mô đạt khoảng 4cm cần chuyển ra ngoài. Cây mô rửa sạch để trên miếng lưới hay rổ kê trên chậu nước để giữ mát cho cây con. Giai đoạn trồng chung trên giàn lấy xơ dừa bó xung quanh cây lan cấy mô, dùng dây thun cuốn lại rồi đặt lên giàn. Sau khi trồng trên giàn được 6-7 tháng thì chuyển sang chậu nhỏ. Khoảng 6 tháng thì chuyển sang chậu lớn. Sau mỗi lần chuyển chậu khoảng 1 tuần mới được bón phân. Việc thay đổi chậu còn tùy kích cỡ của cây, mức độ thối, hư mục rêu bám… Nếu trồng lan để chơi, lan lâu ngày ra hoa ít cần dỡ lan ra khỏi chậu, cắt bớt các rễ già và quá dài, chuyển sang chậu mới, thay giá thể mới, lan sẽ sinh trưởng tốt và ra hoa trở lại.

5. CHĂM SÓC LAN

Lan là cây trồng dễ chăm sóc nếu chúng ta đảm bảo được các điều kiện thuận lợi cho lan phát triển. Các yếu tố quan trọng nhất đối với lan là ánh sáng, nước tưới, độ ẩm, chậu hay giá thể và dinh dưỡng.

- Chiếu sáng: Mật độ chiếu sáng ảnh hưởng rất lớn tới quá trình sinh trưởng, phát triển và ra hoa của lan. Thiếu nắng cây lan vươn cao nhưng nhỏ và ốm yếu, lá màu xanh tối, dễ bị sâu bệnh tấn công, cây ít nảy chồi, khó ra hoa, hoa nhỏ và ngắn màu sắc không tươi, hoa nhanh tàn. Thừa nắng lan thấp cây, lá vàng có vết nhăn và khô, mép lá có xu hướng cụp vào, dễ ra hoa sớm khi cây còn nhỏ nên hoa ngắn, nhỏ, cây kém phát triển. Nếu nắng gắt quá lá sẽ bị cháy, khô dần rồi chết.

Lan có yêu cầu khác nhau về mức độ chiếu sáng tùy theo loài lan và tuổi cây. Lan Hồ điệp (Phalaenopsis) ít chịu nắng nhất, có thể chịu được 30% nắng, lan Cattleya chịu được 50% nắng, lan Dendrobium hay Vanda lá hẹp chịu được 70% nắng, trong khi lan Vanda lá dài và Bò cạp chịu được tới 100% nắng. Lan con từ 0-12 tháng đang trong giai đoạn tăng trưởng thân lá chỉ cần chiếu sáng 50%, lan nhỡ từ 12-18 tháng cần chiếu sáng tới 70% và thời điểm kích thích ra hoa có thể cho chiếu sáng nhiều hơn, thậm chí bỏ dàn che để chiếu sáng tự nhiên. Hướng chiếu sáng cũng rất quan trọng đối với lan. Lan đặt ở hướng Đông nhận ánh nắng buổi sáng sẽ tốt hơn nhiều so với lan đặt ở hướng Tây nhận ánh nắng buổi chiều. Chính vì vậy nếu trồng lan trên sân thượng hay ban công ở phía Tây lan kém phát triển và ít hoa. Khi trồng lan cần bố trí hàng theo hướng Bắc – Nam để cây nhận được ánh sáng phân bố đầy đủ nhất.

- Phân bón: Dinh dưỡng đóng vai trò rất quan trọng đối với lan. Khi lan đầy đủ dinh dưỡng cây tươi tốt, ra nhiều hoa, hoa to đẹp, bền trong khi thiếu dinh dưỡng lan còi cọc, kém phát triển, không hoặc ít có hoa. Lan cần 13 chất dinh dưỡng khoáng, thuộc các nhóm đa, trung và vi lượng: Dinh dưỡng đa lượng gồm Đạm (N), Lân (P) và Kali (K). Dinh dưỡng trung lượng gồm Lưu huỳnh (S), Magiê (Mg) và Canxi (Ca). Dinh dưỡng vi lượng gồm Sắt (Fe), Kẽm (Zn), Đồng (Cu), Mangan (Mn), Bo (B), Molypđen (Mo) và Clo (Cl).

Thiếu đạm, cây còi cọc, ít ra lá, ra chồi mới, lá dần chuyển vàng theo qui luật lá già trước, lá non sau, rễ mọc ra nhiều nhưng cằn cỗi, cây khó ra hoa.

Thừa đạm, thân lá xanh mướt nhưng mềm yếu, dễ đổ ngã và sâu bệnh, đầu rễ chuyển xám đen, cây khó ra hoa.

Thiếu lân, cây còi cọc, lá nhỏ, ngắn, chuyển xanh đậm, rễ không trắng sáng mà chuyển màu xám đen, không ra hoa.

Thừa lân cây thấp, lá dày, ra hoa sớm nhưng hoa ngắn, nhỏ và xấu, cây mất sức rất nhanh sau ra hoa và khó phục hồi. Thừa lân thường dẫn đến thiếu Kẽm, Sắt và Mangan.

Thiếu kali, cây kém phát triển, lá già vàng dần từ hai mép lá và chóp lá sau lan dần vào trong, lá đôi khi bị xoắn lại, cây mềm yếu dễ bị sâu bệnh tấn công, cây chậm ra hoa, hoa nhỏ, màu không sắc tươi và dễ bị dập nát.

Thừa kali, thân lá không mỡ màng, lá nhỏ. Thừa kali dễ dẫn đến thiếu magiê và can xi.

Thiếu lưu huỳnh, lá non chuyển vàng nhạt, cây còi cọc, kém phát triển, sinh trưởng của chồi bị hạn chế, số hoa giảm.

Thiếu magiê, thân lá èo uột, xuất hiện dải màu vàng ở phần thịt của các lá già trong khi hai bên gân chính vẫn còn xanh do diệp lục tố hình thành không đầy đủ, cây dễ bị sâu bệnh và khó nở hoa.

Thiếu canxi, cây kém phát triển, rễ nhỏ và ngắn, thân mềm, lá nhỏ, cây yếu dễ bị đổ ngã và sâu bệnh tấn công.

Thiếu kẽm, xuất hiện các đốm nhỏ rải rác hay các vệt sọc màu vàng nhạt chủ yếu trên các lá đã trưởng thành, các lá non trở nên ngắn, hẹp và mọc sít nhau, các đốt mắt ngọn ngắn lại, cây thấp, rất khó ra hoa.

Thiếu đồng, xuất hiện các đốm màu vàng và quăn phiến lá, đầu lá chuyển trắng, số hoa hình thành ít bị hạn chế, cây yếu dễ bị nấm tấn công.

Thiếu sắt, các lá non chuyển úa vàng sau trở nên trắng nhợt, cây còi cọc, ít hoa và dễ bị sâu bệnh tấn công.

Thiếu mangan, úa vàng giữa các gân của lá non, đặc trưng bởi sự xuất hiện các đốm vàng và hoại tử, các đốm này xuất hiện từ cuống lá non sau lan ra cả lá, cây còi cọc, chậm phát triển.

Thiếu bo, lá dày, đôi khi bị cong lên và dòn, cây còi cọc, dễ bị chết khô đỉnh sinh trưởng, rễ còi cọc số nụ ít, hoa dễ bị bị rụng, không thơm và nhanh tàn.

Thiếu molypden, xuất hiện đốm vàng ở giữa các gân của những lá dưới, nếu thiếu nặng, các đốm này lan rộng và khô, mép lá cũng khô dần, cây kém phát triển.

Thiếu clo, xuất hiện các vệt úa vàng trên các lá trưởng thành sau chuyển màu đồng thau, cây còi cọc, kém phát triển.

Lan rất cần phân bón nhưng không chịu được nồng độ dinh dưỡng cao, vì vậy bón phân cho lan phải thực hiện thường xuyên và tốt nhất là bằng cách phun qua lá. Phân bón cho lan phải chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng đa, trung và vi lượng với thành phần và tỷ lệ phù hợp với từng thời kỳ sinh trưởng và phát triển của cây. Nguyên tắc chung là lan trong thời kỳ sinh trưởng thân lá mạnh cần đạm cao, lân và kali thấp, trước khi ra hoa cần lân và kali cao, đạm thấp trong khi lan nở hoa cần kali cao, lân và đạm thấp hơn.

Phân bón thích hợp cho các thời kỳ này là Đầu Trâu 501, 701 và 901, đây là loại phân có đầy đủ và cân đối đa, trung, vi lượng và các chất điều hòa sinh trưởng. Nồng độ và liều lượng phun tùy thuộc tuổi và thời kỳ phát triển như sau:

- Lan mới trồng 0-6 tháng hoặc lan mới ra chồi non sau cắt hoa: Phun phân bón lá Đầu Trâu 501 (30-15-10) nồng độ 500 ppm (0,5 g/lít). Giai đoạn trước 3 tháng phun định kỳ 3 ngày/lần, từ 3-6 tháng định kỳ 7 ngày/lần.

- Lan mới trồng 6-12 tháng hay lan cũ có chồi mới đang phát triển mạnh: Phun phân bón lá Đầu Trâu 501 (30-15-10) nồng độ 2.000 ppm (2g/lít), định kỳ 7 ngày/lần.

- Lan mới trồng 12-18 tháng hay lan cũ có chồi đã thành thục chuẩn bị ra hoa: Phun phân bón lá Đầu Trâu 701 (10-30-20) nồng độ 3.000 ppm (3g/lít), định kỳ 7 ngày/lần. Giai đoạn này cần giảm nước tưới và bỏ bớt mật độ giàn che để năng mức độ chiếu sáng nhằm kích thích ra hoa.

- Khi vòi hoa xuất hiện: Phun phân bón lá Đầu Trâu 901 (15-20-25) nồng độ 2.000 ppm (2g/lít) nhằm thúc hoa nở to, đẹp, giữ hoa lâu tàn.

- Tưới nước: Lan rất cần nước cho quá trình sinh trưởng phát triển. Nếu thiếu nước cây sẽ khô héo, giả hành teo lại, lá rụng nhưng không chết, nụ có thể trước khi nở hoa. Thừa nước, cây dễ bị thối đọt nhất là với các giống lan có lá đứng mọc sít nhau. Quá nhiều nước rễ có rong rêu và nấm bệnh phát triển mạnh. Nước tưới cho lan không quá mặn, phèn và clor dưới ngưỡng cho phép, pH 5,6. Chỉ tưới nước đủ ẩm, nên tưới vào sáng sớm hay chiều mát, tránh tưới buổi trưa khi trời đang nắng nóng. Sau những trận mưa bất thường, nhất là mưa đầu mùa cần tưới lại ngay để rửa bớt các chất cặn đọng lại trên thân lá.

- Phòng trừ sâu bệnh: Lan là cây cũng dễ bị sâu bệnh, nhất là trong điều kiện chăm sóc kém, điều kiện môi trường không thuận lợi. Tùy theo từng loại sâu bệnh mà dùng các loại thuốc thích hợp. Liều lượng và nồng độ phun cần theo đúng hướng dẫn trên bao bì sản phẩm. Nếu lan bị các loại sâu hại thân lá có thể dùng các thuốc chứa hoạt chất Fenitrothion, Trichlorfon như Ofatox 400EC, hoạt chất Cartap như Patox 95SP hay Captafon, Captan hoặc Actara 25WG. Lan bị rệp sáp, rệp trắng, rầy mềm dùng Supracid 40ED/ND, Suprathion 40EC, Bitox 40EC hay Ofatox 400EC. Lan bị nấm, vi khuẩn hay virus gây nên tình trạng cháy lá từng đám, vết cháy lan tròn dần, bệnh thối rễ dùng Zinep, Starner 20 WP hay Benomyl.

6. THU HOẠCH VÀ BẢO QUẢN
Hoa cắt cánh ngâm trong dung dịch giúp hoa lâu héo khoảng 15 phút, sau đó bọc lại bằng giấy báo.
Nguồn CT Phân Bình Điền

Sử dụng phân vô cơ trồng hoa lan đúng cách

Sử dụng phân vô cơ trồng hoa lan đúng cách

Muốn sử dụng phân có hiệu quả, ta phải biết đến các điều kiện sinh lý ở cây lan và công dụng các chất trong phân bón.
Việc bón phân cho hoa lan trước đây có nhiều bàn cãi, có người cho rằng cây hoa lan phát triển một cách tốt đẹp trong thiên nhiên mà chẳng cần một chút phân bón nào cả cho nên họ chủ trương không cần bón phân cho lan trồng. Nhưng ta biết rằng rễ lan tìm kiếm nước và khoáng chất trong thiên nhiên ở nước mưa và vỏ mục, lá mục ở trên hốc cây, vỏ cây, trong những đám rêu, dương xỉ … sống bám trên cành cây và các chất mà nước mưa mang theo khi chảy tuột từ đầu tán lá đến dọc cành cây. Vì thế khi cắt lìa cành cây có lan sống bám trên ấy để trồng thì cây lan bây giờ chẳng nhận được gì cả ngoài sự phân rã của khối gỗ ấy. Do đó khi trồng lan trong vườn chỉ với than gỗ và gạch thì việc bón thêm phân là cần thiết.

Ngày nay vấn đề đã ngã ngũ vì vậy mà trên thị trường đã xuất hiện rất nhiều loại phân bón cho hoa lan và không nhà trồng lan nào là không biết đến chúng.

Nhưng bón phân gì? Bón như thế nào? lại là vấn đề khó khăn vì nhu cầu phân bón đối với cây lan khác nhau không những tùy theo loài lan mà còn tùy theo từng thời kỳ sinh trưởng của mỗi cây lan nữa. Cho nên muốn sử dụng phân có hiệu quả, ta phải biết đến các điều kiện sinh lý ở cây lan và công dụng các chất trong phân bón.
bón phân vô cơ trồng lan

Ngày nay để có vườn lan đẹp, chất lượng đồng đều, người ta đã biết áp dụng bón phân vô cơ và hữu cơ

Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu cách sử dụng phân hóa học (phân vô cơ) tùy theo loài và giai đoạn phát triển của cây hoa lan.

Phân vô cơ có tỷ lệ đạm cao

Phân này thúc cây phát triển thân, ngôn và lá nhiều hơn là phát triển rễ. Phù hợp cho lan con, chúng sẽ phục hồi và lớn nhanh chóng sau khi ra khỏi chai nuôi cấy mô. Phân này cũng rất phù hợp đối với những cây đã suy, đang nhảy chồi mới và những cây sau thời kỳ nghỉ đang ra chồi mới.

Ta có thể linh động pha chế tỷ lệ phân tùy theo tình trạng của cây. Thí dụ đang tưới phân 3:1:1, ta thấy cây phát triển tốt nhưng lá quá xanh đậm, chứa quá nhiều nước thì ta có thể thay thế bằng phân 3:2:2 hoặc 2:1:1. Nếu tiếp tục tưới mà đến thời kỳ ra hoa, cây vận chưa cho hoa thì ta tiếp tục giảm N xuống nữa bằng cách dùng phân 1:1:1 hoặc tăng P lên với phân 1:3:1.

Việc tăng hay giảm N ở phân không có gì phức tạp.

Phân có tỷ lệ lân cao

Phân này kích thích ra rễ, ra hoa, làm cho lá bớt màu xanh thẫm và bớt lượng nước quá nhiều ở trong lá, giúp cây thêm khả năng đề kháng bệnh. Phân này cũng thích hợp cho những vườn lan ở những nơi râm mát, hơi thiếu sáng. Ở các vườn lan này, cây lan có lá xanh, mập chứa nhiều nước, chậm ra hoa, nếu có hoa cũng xấu. Nếu là Dendrobium thì ra chồi nhánh ở ngọn thay cho việc ra hoa, sau đó mới ra hoa.

Việc dùng phân có tỷ lệ P2O5 cao cũng phải thận trọng vì lợi và hại luôn luôn đi đôi với nhau: nếu dùng phân có tỷ lệ P2O5 cao trong trường hợp cây lan đã suy yếu do quá thiếu chất dinh dưỡng, sẽ làm cây lan chậm ra hoa, hoặc có hoa cũng xấu, hoặc chết luôn vì tưới phân như vậy lại làm cho cây lan càng thiếu N. Vậy ta phải sử dụng P2O5 cao chừng nào cho phù hợp? Điều này đòi hỏi người trồng lan phải thí nghiệm và tự mình điều chỉnh.

Phân có tỷ lệ Kali cao

Phân này có mục đích làm cho cây lan khỏe mạnh, chịu được khô hạn tốt. Trường hợp thường xảy ra là ở những cây lan rất khỏe mạnh nhưng bộ rễ rất ít nên về mùa khô, độ ẩm thấp, ta thấy chúng dễ héo đi, nhất là những loài thuộc giống Vanda, Rhynchostylis vì sự thoát nước ở lá nhiều hơn so với sự hấp thu nước ở rễ làm cho cây chậm hay ngừng phát triển. Để ngăn ngừa hiện tượng trên và giúp cho cây lan vượt qua thời gian nghỉ trong mùa khô, ta dùng phân có K2O cao với điều kiện là phải tưới phân có K2O cao ấy trước mùa khô, hoặc 2-3 tháng trước khi có hiện tượng trên xảy ra.

So với thực vật khác, lan cần K2O tương đối nhiều hơn. Vai trò của K2O sẽ giúp cho màu hoa đẹp, bền. Những cây thiếu K2O sẽ có hoa không tươi, chóng tàn. Vậy thời điểm sử dụng phân này là lúc cây bắt đầu có hoa.

Phân có tỷ lệ cân đối

Đây là phân có N – P – K bằng nhau về tỷ lệ. Sử dụng phân này ta rất yên tâm vì sẽ không thừa chất này, thiếu chất nọ, thuận tiện cho các vườn lan công nghiệp (đồng đều). Những vườn lan mà độ ẩm, nhiệt độ, độ thông thoáng cân đối thì dùng phân tỷ lệ 1:1:1 là lý tưởng nhất.

Nguyễn Thiện Tịch - Tổng biên tập Tạp chí Hoa Cảnh

Chăm sóc và bảo vệ cây lan non

Chăm sóc và bảo vệ cây lan non

Hẳn như các bạn đều đã biết là lan con rất non yếu không thể thích ứng nhanh chóng với những đổi thay đột ngột ở môi trường xung quanh, vì vậy cần quan tâm những yêu cầu sau
1. Giàn che

Giàn che cho lan con phải hết sức lưu ý đến yếu tố về ánh sáng, nhiệt độ, ẩm độ, độ thông thoáng. Giàn che để nuôi lan con phải có các điều kiện sao cho tương đối giống với lúc còn ở trong chai cấy như: ánh sáng vừa phải, che được mưa, tránh được gió lộng, sự chênh lệch nhiệt độ trong ngày thay đổi không đáng kể. Như vậy ta có thể làm được nhiều kiểu giàn che cho lan con tuỳ theo địa thế của vườn và vật tư ta có được. Để tránh gió quá lộng ở những nơi quá trống trải thì chung quanh nên dùng mành tre, lưới lan để che, đừng xây tường gạch quá cao, sẽ thiếu thoáng mà lại hầm hơi khiến lan dễ bị hư thối.

Để tránh mưa thì mái che có thể dùng tôn trong hay ny lơng trong cho những cây lan con mới ra khỏi chai. Những cây lan con đã trồng vào chậu riêng thì có thể để dưới giàn che có mái bằng lưới hay nẹp tre tiếp nhận khoảng 30% ánh sáng. Dưới giàn nên thêm một lớp lưới ô vuông (lưới mùng) để giảm cường độ sáng và để tránh tác hại của các giọt nước mưa to nặng hạt có thể làm chấn thương lan con. Để chủ động về độ ẩm thì lan con nên để ở dưới giàn che có phủ ny lông trong, lớp ny lông này có thể cuốn lại lúc nắng hay bung ra khi có mưa.

Để tăng cường độ ẩm thì phía dưới, tức ở nền, có thể rải cát, đá mi, sỏi, hoặc đào ao, hoặc trồng dương xỉ.

2. Tưới nước

Tưới nước cho lan con mới ra chai hay đã trồng vào chậu phải hết sức thận trọng: sau khi mới trồng khoảng 1-2 ngày, ta không cần tưới nước ngay vì trong chất trồng ta vừa mới rửa, mới ngâm còn giữ ẩm cao. Nếu ta tưới nước ngay, hay tạo độ ẩm cao thì cây lan rất dễ thối. Thường tỷ lệ cây chết thối vì dư nước ở giai đoạn này rất cao đối với những người mới trồng lan. Vì vậy giai đoạn này đòi hỏi người trồng lan phải thường xuyên quan sát môi trường trồng là còn ẩm hay đã khô, khô trên mặt hay khô ở dưới đáy chậu, khô đã bao lâu. Lúc tưới với lúc ta quan sát cách nhau bao lâu. Thời tiết hôm đó như thế nào, tất cả điều đó giúp ta kết luận đúng và xử lý đúng chế độ tưới nước cho lan con.

Một điều lưu ý nữa là cây lan con mới lấy ra khỏi chai hay mới trồng một vài ngày, chúng thường héo rũ lá xuống, điều này không đáng ngại. Ta phải tưới nước hết sức nhẹ nhàng bằng vòi phun sương mịn hạt và thường xuyên tưới mỗi ngày có thể 3-4 lần, nếu quá khô. Nguyên tắc là giữ ẩm cho lan con nhưng không phải là quá ướt. Dĩ nhiên cũng phải để cho có lúc khô ráo nhưng không đến nỗi héo rũ cây xuống.

3. Bón phân

Có thể bón phân ngay cho lan con mới trồng bằng loại phân bón lá.

Nguyên tắc tưới phân cũng phải từ nồng độ thấp rồi tăng lên từ từ. Mỗi tuần 1-2 lần. Điều này còn tuỳ thuộc vào môi trường trồng, chất trồng và phải ứng của cây lan mà ta quan sát được.

4. Trị bệnh

Đối với lan con thường chỉ có bệnh thối (damping off) ở các chậu chung và các chậu thừa độ ẩm. Dùng Thiram hay Sodium Orthophenylolenate để trị.

Cũng cần lưu ý đến ốc, sên, dán … cắn phá cây lan con ở tất cả các phần từ rễ đến lá. Dùng thuốc diệt rệp trắng, rầy ở dưới chậu, trong chất trồng.

Trồng cây lan con đúng kỹ thuật

Trồng cây lan con đúng kỹ thuật

Lan con bao gồm lan gieo hột và lan cấy mô được nuôi dưỡng trong các chai cấy. Sau khi cây lan con đã phát triển tốt, cao khoảng 3-5cm, có bộ rễ cân đối với lá, lúc đó ta chuẩn bị đem chúng ra trồng bên ngoài. Dưới đây chúng tôi trình bày cách trồng cây lan con từ chai cấy mô.
1. Chuẩn bị để trồng

Những dụng cụ và công tác phải chuẩn bị để tiến hành đem cây con ra khỏi chai và trồng vào chậu:

Thau bằng nhựa hay bằng nhôm, có đường kính khoảng 40-50cm dùng chứa nước để rủa cây lan con cho thật sạch thạch. Nước rửa tốt nhất là nước mưa.
Que móc có uốn cong một đầu để lấy lan con ra khỏi chai
Rổ hay khay vuông để trữ cây cho ráo nước
Thuốc sát trùng để xử lý các chai bị nhiễm bịnh. Bình thường thì không dùng bất kỳ thứ thuốc sát trùng gì cho cây lan con mới đem ra khỏi chai vì chúng đang ở trong môi trường trong sạch, không bệnh tật nên việc sát trùng cho chúng là không cần thiết.
Chậu con, xơ dừa, than nhỏ
Chậu chung (loại chậu thường có đường kính khoảng 10cm – 20cm) hoặc khay nhựa có lỗ tự đóng có thành cao 3 – 4cm, đáy có lưới bằng nylon. Mỗi chậu chứa khoảng 50 cây, mỗi khay chứa  chừng 200 – 500 cây. Điều bất lợi là nếu một cây bị bệnh thì sẽ lây lan cả khay nếu không phát hiện kịp thời.
Bét phun có lỗ nhỏ để tưới phun sương, mịn hạt
Chuẩn bị nơi để nuôi dưỡng lan con (ít nắng, ít gió, nhiệt độ thấp, ẩm độ cao …)

2. Tiến hành trồng

a) Lấy lan con ra khỏi chai

Kiên trì, cẩn thận dùng que móc kéo ra từng cây một, nên kéo ở phần gốc cho ra trước, phần ngọn lá ra sau, tránh chấn thương cho lá và rễ. Đối với những loài quý hiếm mà cây lan đã quá lớn, khó kéo ra khỏi miệng chai thì ta có thể đập bể chai để lấy ra.

b) Rửa sạch môi trường bám theo ở lan con

Sau khi đã lấy hết lan ra, đổ vào thau nước để rửa. Dùng tay quậy nhẹ nhàng cho nước xoáy nhẹ quanh thau để thạch từ từ rã ra. Sau đó dùng tay chuyển nhẹ nhàng các cây này sang thau nước kế. Hoặc nếu có cái rổ hay lược thì vớt nhẹ nhàng các cây này cùng một lượt rồi nhúng vào thau nước kế, như vậy sẽ nhanh hơn và cây ít bị bầm dập hơn là dùng tay. Cứ thế ta có thể rửa 2-3 nước cho đến khi đã sạch hết thạch thì đem cây ra khỏi nước ngay. Không nên ngâm cây con quá lâu ở trong nước vì như thế lá, rễ nếu có bị chấn thương sẽ dễ bị bầm úng, đễ thối chết. Cần phải rửa sạch thạch bám theo cây lan con, nếu không chính thạch ấy sẽ là môi trường bổ dưỡng cho vi trùng, vi khuẩn xâm nhập, gây bệnh cho lan.

c) Sắp xếp theo kích cỡ

Sau khi đã rửa sạch, ta tiến hành phân chia chúng ra từng nhóm tuỳ theo kích thước. Cần phải phân ra nhóm như vậy để khi trồng chúng phát triển đồng đều, dễ có chế độ chăm sóc cho từng nhóm. Khi sắp xếp thì cho chúng tựa vào nhau từ thành khau tiến dẫn vào giữa khay, sao cho ngọn lá đứng thẳng.

Sau khi đã xếp cây vào khau nếu chưa trồng kịp thì để chúng vào nơi mát mẻ, không có nắng cũng như không có gió nhiều rồi trồng dần dần, sau một – hai ngày hoặc đến một tuần cũng chẳng sao. Sau khi rửa, tuyệt đối không để lan con dồn đống lại, chúng sẽ hầm nóng mà thối ngay.

Các cây lớn, khoẻ có thể trồng vào chậu riêng ngay mà không cần qua giai đoạn chậu chung.

d) Trồng vào chậu riêng

Chậu riêng có đường kính ở 5-10 cm, có lỗ bên hông hay không nhưng cần có lỗ thoát ở đáy. Chất trồng có thể là xơ dừa sợi hay miếng, dớn, than nhỏ … Tất cả phải sạch, được phơi nắng để khử trùng. Nếu trồng ít thì có thể đun sôi để khử trùng.

Có thề trồng theo các cách sau đây, tuỳ theo mùa, theo độ ẩm của vườn:

Cách 1: Dùng một ít xơ dừa sợi đã thấm nước cho mềm, quấn quanh gốc lan ở phần rễ, không che kín gốc lan, rồi cho vào chậu con, chêm thêm tham nhỏ vào chung quanh cho chặt. Không bao giờ chôn kín gốc lan (phần cổ rễ) ở dưới than. Để than còn cách miệng chậu khỏng 2-3cm là vừa.

Cách 2: Dùng xơ dừa miếng đã thấm nước, đập dập, cắt dài khoảng bằng chiều cao của chậu, mỗi miếng to khoảng 2-4cm. Độ 3-4 miếng thì vừa chật một chậu con. Kẹp cây lan con vào giữa các thỏi xơ dừa ấy sao cho cây lan được đứng thẳng, phần gốc không chôn trong các thỏi xơ dừa, rồi nhét vào chậu con cho vừa chặt, nếu cần thì chêm thêm xơ dừa vào.

Cách 3: Có thể dùng các thỏi xơ dừa như trên hoặc dớn sợi cắt dài bằng nhau. Sau khi cho lan con vào giữa, thay vì nhét vào chậu con, ở đây không dùng chậu mà dùng dây buộc lại thành từng bó một. Mỗi bó to cỡ cái trứng gà. Các bó này đặt sát cạnh nhau trên một cái kệ bằng lưới carô cho thật thoáng ở đáy.

Có thể chỉ dùng than nhỏ cho vào chậu con rồi cho cây lan con vào giữa, không dùng thêm xơ dừa như trường hợp đầu tiên, nhưng kinh nghiệm cho thấy tốc độ phát triển của cây lan có phần chậm hơn và khi cho cây lan con vào khó giữ cho đứng thẳng hơn.

Cần lưu ý:

+ Đối với các cây lan có rễ thoáng như Vanda, Rhynchostylis … cần dùng chậu con có lỗ bên nhiều, chậu có đường kính khoảng 8-10cm và chất trồng cũng phải thoáng hơn. Vì cần thoáng cho nên thường chỉ dùng than, các khối than to hơn (khoảng 4-5cm3).

+ Khi bóp xơ dừa thì không bóp quá chặt, làm rễ và gốc lan bị dập, dễ thối. Nhưng cũng không để quá lỏng lẻo, cây lan không đứng vững, khi có gió hay khi tưới nó sẽ bị lung lay làm đầu rễ bị chấn thương, khó phát triển tốt được .

+ Trong bất cứ trường hợp nào cũng không trồng với gốc lan lún sâu trong chất trồng, dễ bị úng thối.

+ Sau khi trồng xong nên ghi tên, ngày trồng vào thể, cắm vào chậu để tránh nhầm lẫn, tai hại về sau.

e) Trồng vào chậu chung

Với các cây lan còn nhỏ ta phải trồng chung với nhau trong một chậu hay một khay. Như vậy chậu chung có 2 loại: loại khay nhựa hay khay gỗ thoáng, có đóng lưới nylon ở đáy và loại chậu to thường dùng để trồng lan. Có thể trồng theo các cách sau, tuỳ theo độ ẩm của vườn hay theo mùa:

Dùng xơ dừa sợi (vỏ dừa già khô, đập tơi ra) ngâm cho ướt, cắt bằng hai đầu, dài khoảng 2 lóng tay (khoảng 5cm) bó lan con vào, sao cho phần gốc của cây lan ở sát ngay trên mặt cắt của xơ dừa, phần rễ trải dọc trong xơ dừa. Không bó gốc lan lún sâu vào trong sơ dừa, dễ thối lan. Mỗi bó to gấp 2-4 lần ngón tay cái (cỡ bằng đường kính hột gà). Sau khi bó xong, dùng sợi sớ xơ dừa mà cột ngang một vòng cho vừa chặt. Đừng ép quá chặt sẽ làm dẹp rễ lan, cũng đừng để quá lỏng lẻo, cây lan không đứng vững làm giảm tốc độ phát triển của cây lan. Cuối cùng hay chất các bó xơ dừa ấy vào chậu chung (loại chậu thường dùng để trồng lan trưởng thành có đường kính khoảng 10 – 15 cm). Để chậu nằm nghiêng rồi chất các bó xơ dừa từ mép chậu ở dưới lên, ép chặt chúng lại với nhau sao cho khi để chậu đứng lên thì các bó xơ dừa giữ chặt với nhau mà không tuột xuống đáy chậu. Mép trên của chậu ngang với đầu trên của các bó xơ dừa, đáy chậu vẫn còn trống.

Nếu dùng chậu chung với xơ dừa sợi thì ta cho xơ dừa vào chậu rồi dùng kéo cắt cho bằng đầu, thấp hơn miệng chậu một tí. Xơ dừa cho vào chậu đừng quá lỏng mà cũng đừng chặt quá. Dùng que nhọn thọc cho vào lỗ rồi từ từ đặt cây lan con vào các lỗ đó sao cho gốc lan vừa ngang mặt xơ dừa, ngọn lan đứng thẳng. Khoảng cách cây lan con trong chậu đừng quá dày sau này khó tách riêng ra. Cách này nên áp dụng vào mùa khô vì xơ dừa giữ ẩm tốt.

Nếu chất trồng chỉ là than chỉ thì không nên dùng than quá to, cũng không nên dùng than quá vụn, tuyệt đối không dùng than bụi, tốt nhất là nên dùng than cỡ 0,5 -2 cm3. Cho than vào còn chừa mép chậu cỡ 2-3cm để khi đặt cây con vào thì có thành chậu để tựa cho ngọn lan đứng thẳng vì vậy mà phải xếp các cây lan từ thành chậu tiến dần vào giữa chậu. Các cây tựa vào nhau nhưng khoảng cách giữa chúng vừa phải, không để bộ rễ quá chồng lên nhau, quá dàu, dễ gây thối úng vì ẩm độ cao.

Nếu dùng khay gỗ hay khay nhựa thì ta xếp các cây cùng kích thước vào cùng một khau. Khi xếp phải nhẹ nhàng, ngọn cây phải đứng thẳng, bộ rễ không quá chồng nhau. Cũng xếp từ thành khau tiến vào trung tâm. Xếp cho đều cây, khoảng cách cân đối, vừa đẹp mắt đễ tách để trồng sau này. Trong trường hợp dùng khay ta có thể không dùng chất trồng gì cả nên rễ lan sẽ mọc vào các lỗ ở đáy khay vì vậy phải cẩn thận khi tách chúng ra.

Sau 1-3 tháng, khi cây phát triển tốt, chúng sẽ được tách ra trồng vào chậu riêng. Tiến trình lập lại như trường hợp d. đã nêu ở trên.

Có thể sắp xếp các cây con không chật quá cũng không thưa quá vào trong chậu lớn (đường kính cỡ 10-14cm), rồi để vào giàn lan con, châm sóc bình thường – nghĩa là không cần chất trồng gì cả, chúng vẫn phát triển tốt. Khi chúng mạnh thì ta mới tiến hành trồng riêng.

Trong trường hợp nhóm phong lan có rễ lớn như Vanda, Rhynchostylis … người ta có thể rải cây con trên lưới lan (đã gấp xếp lại 2-3 lớp) để trồng chung. Khi chúng mạnh, người ta cắt lưới, gỡ từng cây ra trồng riêng.

f) Sang chậu lớn

Sau khi trồng ở chậu riêng được 1-3 tháng, cây tương đối lớn thì ta chuyển chúng sau chậu lớn vì nếu cứ để trong chậu con thì sẽ quá chật chội so với kích thước của cây lan, độ ẩm thiếu, hơn nữa chất trồng đã bắt đầu hư mục và mầm bệnh cũng chớm phát. Vì vậy trước khi sang chậu, có thể ngâm toàn thể chậu và cây lan trong nước (có thể pha thuốc sát trùng để diệt trùng nếu cây bị bịnh) để cho rễ mềm dễ tách ra khỏi chậu con. Những để tránh bệnh lây lan sang những chậu không bị bệnh thì chỉ cần tưới nước thật đậm trước khi sang chậu là tốt hơn cả. Sau đó gỡ toàn bộ cây lan ra, cho mỗi cây vào một chậu lớn, cho thêm than vào: to ở dưới, nhỏ ở trên. Không nên trồng bằng cách để nguyên chậu con lồng vào trong chậu lớn vì làm như vậy sẽ rất khó khăn khi ta muốn thay chất trồng trong chậu con ra khi chúng đã quá mục vì lâu ngày, làm thối chồi cũ, lây lan sang chồi mới.
Theo caykieng.farmvina.com

Cách bón phân cho cây hoa lan

Cách bón phân cho cây hoa lan

Cách tốt nhất để bón phân là hòa loãng, cho phân tan hoàn toàn vào nước. Phân bón lỏng dễ sử dụng và phân tán khắp chậu, mau thấm đến rễ. Nếu có dính vào lá thì cũng được hấp thu.
Trong việc chọn lựa phân, ta cân nhắc chừng nào thì trong việc chọn cách tưới phân ta cũng thận trọng chừng đó. Cách tốt nhất để bón phân là hòa loãng, cho phân tan hoàn toàn vào nước. Phân bón lỏng dễ sử dụng và phân tán khắp chậu, mau thấm đến rễ. Nếu có dính vào lá thì cũng được hấp thu. Một số phân bón lá thì nên tưới mỗi ngày và rửa lại vào ngay ngày hôm sau để tránh sự phát triển của rong, tảo và sự cô đọng của muối. Bón phân hột, tan chậm cũng có thể dùng để bổ sung cho việc bón phân lỏng, nhưng thường không được đồng đều, nếu nó dễ tan thì có thể gây hại cho rễ non. Đặc biệt không bón phân hữu cơ vào gốc lan vì sự phân hủy của chúng sớm muộn gì cũng làm mất sự thông thoáng của chậu lan, gia tăng sự ẩm ướt làm thối rễ, hư cây..

Có 2 vấn đề đặt ra khi tưới phân:

Tưới phân làm sao cho cây hấp thụ được nhiều nhất
Tưới phân làm sao cho kinh tế nhất

Như các bạn đã biết, rễ là cơ quan chính yếu giúp cây lan hấp thu nước và muối khoáng để nuôi cây. Ngoài ra lá cũng có khả năng hấp thụ nước và muối khoáng, nhất là ở trường hợp lan con. Nhưng đối với lan lớn, việc hấp thụ của lá không đủ cho nhu cầu phát triển tăng trưởng của cây. Do đó, lúc tưới, ta phải chú ý đến bộ rễ. Vậy tưới làm sao cho ướt bộ rễ là điều đáng bàn cãi.

Có người tưới phân như tưới nước, tưới thật đẫm cho toàn bộ thân, rễ, lá, chậu và chất trồng đều thấm ướt đầy phân. Nhưng tưới như vậy lại sử dụng nhiều phân, không tiết kiệm được phân. Vì vậy muốn đạt được 2 điều nêu trên cùng một lúc, theo kết quả đã đạt được trong mấy năm qua thì trước khi tưới phân, chúng tôi tưới nước qua một lượt như hàng ngày, sau đó quay lại tưới phân cho vừa ướt cả chậu và bộ rễ mà không để phân chảy xuống đất như khi tưới nước. Việc tưới nước cho ẩm ướt trước sẽ dễ dàng thấm phân khi ta tưới vào, không bị chảy tuột đi. Làm như vậy, ta có thể tiết kiệm được 1/2 số lượng phân dùng bình thường.

Nhưng có người cho rằng khi tưới nước vào thì cây hút nước no rồi làm sao hút được phân? Điều này không đúng vì việc hút nước và hấp thụ phân xảy ra theo 2 phương cách khác nhau riêng biệt, nên không có vấn đề no nước khiến rễ từ chối phân.

Tưới phân vào lúc nào trong ngày thì phù hợp nhất?

Nếu ta chia một ngày ra làm 3 giai đoạn thì:

Buổi sáng sớm: nhiệt độ thấp, ẩm độ cao. Dần dần khi mặt trời lên cao khoảng 9-10 giờ thì nhiệt độ tăng dần, ẩm độ hạ thấp xuống.
Buổi trưa từ 9-10 giờ đến 15-16 giờ, nhiệt độ cao và ấm độ thấp liên tục trong nhiều tiếng đồng hồ.
Buổi chiều từ 15-16 giờ, nhiệt độ hạ dần, nhưng ẩm độ tăng lên từ từ cho đến đêm. Suốt đêm độ ẩm cao nhất, nhiệt độ thấp hơn cả.

Phân được sử dụng hiệu quả qua đường lá khi:

Phân ở dạng dung dịch và dung dịch ấy bám vào rễ, lá và chất trồng
Các chất tan dù ở dạng phân tử hay ion sẽ xuyên qua màng tế bào để vào bên trong nguyên sinh chất, thủy thể của tế bào. Cho nên phân mà ta tưới vào lá sẽ xâm nhập liên tục vào bên trong tế bào chừng nào phân còn ở dạng dung dịch. Ngược lại, nếu tưới phân không lâu đã thấy chúng khô đọng lại các vết trắng ở mặt ngoài của lá thì chỉ một phần rất ít phân được hấp thụ mà thôi.
Các vết muối còn đọng ở mặt ngoài của lá sẽ không thấm được vào bên trong tế bào cho đến khi chúng được hòa tan trở lại thành dung dịch. Điều này xảy ra khi không khí có độ ẩm cao.

Thí nghiệm của Rossi và Beauchamp đã cho thấy sự hấp thụ Zn và Mn của muối sulfat ở lá cây đậu vàng trong tủ kính có độ ẩm 70% tốt hơn là ở trong tủ kính có độ ẩm 25%, nhất là trong 24 giờ đầu. Điều này chứng tỏ tưới phân theo đường lá vào lúc độ ẩm cao, cây sẽ hút phân được nhiềuhơn.

Như vậy có thể tưới phân vào lúc sáng sớm hay buổi xế chiều, nhưng không bao giờ tưới phân vào buổi trưa, nhất là phân bón lá, chỉ nên tưới vào lúc trời âm u, không nắng là hiệu quả hơn cả.

Về mặt lý thuyết thì tưới phân vào buổi chiều có phần hợp lý hơn, nhưng về mặt tổ chức và kinh tế (nếu bạn trồng lan kinh doanh) thì tưới phân vào buổi sáng lại lợi hơn vì còn rộng thời gian để điều hành, còn trông thấy rõ hiện trạng tưới phân cho cây để điều động và tránh được nguy hiểm do rắn rít có thể ở trong vườn lúc chiều tối.

Khoảng cách của những lần tưới là bao lâu?

Điều này còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố như điều kiện khí hậu, chất trồng, tình trạng cây, loại phân, nồng độ phân …

Việc tưới phân nên từ nồng độ thấp lên nồng độ cao, như vậy phải gia tăng số lần tưới nên tương đối tốn công lao động, nhưng tránh được nguy hại do nồng độ cao của phân bón gây ra. Những người mới trồng lan thường hay nôn nóng, muốn thấy kết quả ngay nên hay lạm phân làm chết lan!

Bình thường mỗi tuần tưới phân 1 lần cũng được, nhưng nếu trồng lan ở nơi râm mát thì khoảng cách phải dài hơn, 10-15 ngày tưới 1 lần. Ngược lại, vườn lan có nhiều ánh sáng có thể tưới 1-2 lần mỗi tuần cũng chẳng sao.

Sau khi tưới phân một ngày thì nên gia tăng lượng nước tưới của ngày sau đó để rửa các muối còn đọng lại, ngăn ngừa việc tồn đọng muối quá nhiều làm ảnh hưởng bất lợi cho lan, đồng thời cũng để đáp ứng nhu cầu nước gia tăng mà cây lan đòi hỏi cho sự phát triển của nó do sự thúc đẩy của phân bón mà ta đã tưới vào trước đó.

Tóm lại với những nguồn phân vô cơ và hữu cơ trên, chúng ta có thể pha chế thành phân hỗn hợp cho các loại lan, theo các thời kỳ phát triển của nó. Nhưng lưu ý rằng đối với những loại phân ít tan, có tạp chất như super lân, … cần phải ngâm trong nước rồi sẽ lọc để tưới, nếu không các tạp chất không tan ấy sẽ thành muối acid, bám vào rễ, lá, chất trồng làm hại cây lan.

Ngoài phân vô cơ cũng nên bón thêm phân hữu cơ, tuy ít đạm hơn nhưng chúng sẽ cung cấp thêm một số chất khoáng cần thiết cho lan, nhưng phải thận trọng vì nồng độ cao sẽ làm cho cháy lá, đọt bị thối … Do đó với những loại phân mới pha chế, phải sử dụng từ nồng độ thấp rồi tăng dần lên, khi thấy phù hợp cho sự tăng trưởng tốt ở cây lan rồi thì hãy duy trì những loại phân đó mà sử dụng, đừng thay đổi nữa. Nếu muốn thử nghiệm thì hãy thăm dò ở một ít cây, đừng tưới hết cho cả vườn lan những loại phân mà mình chưa quen dùng.

Sau cùng, điều cần biết là một cây lan gồm khoảng 90% nước và chỉ 2% là chất khoáng. Cho nên phần lớn những cây lan chỉ cần những lượng nhỏ chất khoáng để đảm bảo sự tăng trưởng tốt. Lượng chất khoáng này có ở chất trồng, nước tưới và được bổ sung ở phân bón. Nhưng bón phân nhiều quá sẽ mang đến hậu quả khủng khiếp, tệ hại hơn nhiều so với ngay cả khi không bón phân! Nếu lỡ bón phân nhiều quá, thì hãy loại sạch muối ra khỏi chậu lan càng nhanh càng tốt bằng cách tưới xả liên tục nhiều giờ, hoặc ngâm, xả với nước nhiều lần tùy theo chất trồng.
Nguyễn Thiện Tịch - Tổng biên tập tạp chí Hoa Cảnh

Thời vụ ra hoa của một số loài lan tại Hà Nội

Thời vụ ra hoa của một số loài lan tại Hà Nội

Các loài phong lan có thể dùng trang trí trong các chậu cây treo cho hoa đẹp hoặc trồng bám cây, bám đá tạo phong cảnh tự nhiên

Phong lan (Orchidaceae) là một trong những nhóm cây cảnh  phổ biến, thu hút sự say mê của nhiều người chơi cây. Các loài phong lan có giá trị trang trí cao nhờ có hoa tinh tế, rực rỡ, cuốn hút. Việt Nam được biết đến là một trong những nước rất đa dạng các loài phong lan về chủng loại, hình dáng, mầu sắc ,... Số loài các phong lan và địa lan nước ta có khoảng trên 800 loài với nhiều loài quý hiếm chỉ có ở Việt Nam. Đây là một nguồn tài nguyên lớn cho việc phát triển cây cảnh bản địa với những nét đặc sắc riêng biệt.

Các loài phong lan có thể dùng trang trí trong các chậu cây treo cho hoa đẹp hoặc trồng bám cây, bám đá tạo phong cảnh tự nhiên. Phong lan là nét trang điểm nhẹ nhàng, duyên dáng mà cuốn hút. Những loài địa lan được trồng trong chậu như những loại cây cảnh có hoa khác. Cũng có những loài địa lan lá có mầu, vân đẹp dùng để bàn nước trong phòng. Nhiều loài lan được lai tạo từ các loài lan rừng có hoa chùm lớn, thích hợp cho trồng hoa cắt cành. Các loài lan cũng là những cây thuốc Nam có giá trị đối với người dân miền núi.

Kỹ thuật trồng lan phụ thuộc vào loài lan đó là đơn thân hay đa thân, phong lan, địa lan hay thạch lan. Nhân giống sinh dưỡng các loài lan chủ yếu bằng cách tách nhánh. Hoa lan được thụ phấn nhờ sâu bọ. Cũng có thể dễ dàng thụ phấn nhân tạo cho lan để có thể nhân giống cho những loài lan quý hoặc để lai tạo.  Quả lan có rất nhiều hạt nhỏ như hạt bụi không có chứa chất dinh dưỡng. Hạt chỉ nảy mầm trong môi trường nhất định trong nuôi cấy mô hoặc ở quanh gốc các chậu phonglan đã trồng lâu năm, nơi có nhiều các nấm rễ cộng sinh giúp hạt nảy mầm.

Một số loài phong lan rừng có hoa lớn, được trồng làm cảnh đẹp, có khả năng ra hoa tại Hà Nội được trình bày trong bảng dưới đây: Các dòng Dáng Hương
TT Tên Việt Nam Tên khoa học Thời gian ra hoa Mầu sắc hoa Ảnh
1 Dáng hương lá dày, giáng xuân Aerides crassifolia Tháng 5 Tím  
2 Dáng hương quế, Tam bảo sắc Aerides falcata Tháng 4 - 5 Tím  
3 Dáng hương quạt, Dáng hương môi quạt Aerides flabellata Tháng 4 - 5 Vàng lục  
4 Dáng hương quế nâu Aerides houlletiana Tháng 3 - 4 Tím  
5 Dáng hương nhiều hoa Aerides multiflora Tháng 5 - 6 Tím trắng  
6 Dáng hương thơm, Quế lan hương Aerides odorata Tháng 8 - 9 Trắng  
7 Dáng hương hồng nhạn Aerides odorata var micholitzii, Aerides odorata var rosea tháng 5 Tím hồng  

Thứ Tư, 14 tháng 12, 2016

Bí quyết dùng phân hữu cơ trồng hoa lan

Bí quyết dùng phân hữu cơ trồng hoa lan

 
Các nguyên tố cần thiết trong phân không biết được một cách chắc chắn cho nên không có quy định về nồng độ, tỷ lệ pha chế cụ thể mà chỉ do kinh nghiệm của người trồng hoa lan.

 Sự pha chế phân hữu cơ dễ dàng nhờ nguyên liệu dồi dào, dễ tìm kiếm, nhiều nguồn. Nhưng thành phần của phân vì thế mà không rõ rệt. Các nguyên tố cần thiết trong phân không biết được một cách chắc chắn cho nên không có quy định về nồng độ, tỷ lệ pha chế cụ thể mà chỉ do kinh nghiệm của người trồng hoa lan.

Có nhiều loại phân hữu cơ:

1. Nước tiểu:

Là loại phân không tốn tiền nhưng rất hữu hiệu vì trong nước tiểu có đủ khoáng chất cần thiết và còn chứa vài chất kích thích tố tăng trưởng.

Cách dùng: hòa loãng nước tiểu với tỷ lệ 1:10 hay loãng hơn, tưới cách nhật cũng được, tốt nhất mỗi tuần tưới hai lần. Phù hợp với tất cả các loài lan.
2. Nước tiểu và bánh dầu:

100g bánh dầu (bã đậu phụng ép khô) ngâm với 800g nước trong. Sau 3-4 ngày, bắt đầu lên men thối (nên phải đậy kín vì rất hôi thối), cho thêm 100g nước tiểu. Tiếp tục cho lên men độ 4-5 ngày nữa, lúc đó phân bắt đầu hoai. Cho thêm 800g nước trong và khuấy đều, để lóng. Khi hết mùi thối, lọc lấy phần nước trong, gọi là nước phân nguyên chất.

Cách dùng: Mỗi tháng chỉ tưới 1-2 lần với tỷ lệ 1:4 (1 phần nước nguyên chất hòa với 4 phần nước trong).

Thích hợp với Dendrobium, Phalaenopsis, Paphiopedilum, Oncidium, Renanthera … Không công hiệu lắm với Brassolaeliocattleya.

3. Phân động vật:

Gồm tất cả các phân của động vật: trâu, bò, gà, chim, dơi … Phần dinh dưỡng trong phân động vật thường rất thấp nhưng lại có hiệu quả tốt khi dùng cho lan. Chúng tôi xin chia sẻ một số loại phân thường dùng và tỷ lệ dưỡng chất % (theo Đạm – Lân – Kali) để các bạn tham khảo:

Gà: 1,63 – 1,54 – 0,85
Heo: 0,7 – 1,3 – 1,2
Trâu bò: 0,4 – (0,2 đến 2,3) – (0,9 đến 1,3)
Ngựa: 0,5 – 0,4 – 0,3

Người ta nhận thấy rằng những cây hoa lan trồng chậu và được bón trực tiếp phân động vật thì tăng trưởng rất tốt vào lúc đầu nhưng về sau rễ lan bị hư thối; có lẽ là do sự phân rã của phân làm cho không khí bị tù hãm và nước bị ứ đọng trong chậu cùng lúc với sự tăng nhanh của vi khuẩn. Điều này giải thích tại sao phân động vật dùng ở mức độ cao một cách liên tục sẽ làm giảm đi sự tăng trưởng và ra hoa. Để tránh tình trạng nay thì chúng ta phải:

Tạo sự thông thoáng cho đáy chậu
Không dùng phân động vật trực tiếp mà phải ngâm cho rã rục, lấy nước để dùng
Nên tưới phân hữu cơ vào buổi sáng để tia nắng ban mai và sự khô nhanh vào buổi trưa giúp hạn chế mầm bịnh.
Kết hợp tưới phân và tưới thuốc cùng lúc hoặc tưới thuốc phòng bịnh cho cây hoa lan ngay ngày hôm sau của lịch tưới phân.

Khi dùng thì phải pha loãng tùy theo độ đậm đặc của phân lúc ngâm với nước.

Thích hợp nhất với Dendrobium, Vanda, Arachnis, Aranda, Mokara … Chúng tôi đã dùng phân bò cùng tăng cường ánh sáng đã đạt năng suất 60-80% đối với Blc Alma kee “Thipmalee”. Cũng có báo cáo cho thấy rằng sử dụng phân gà đã đem lại sản lượng phát hoa cao hơn và cả sự tăng trưởng nhanh hơn ở Aranda, Dendrobium.
4. Xác bã động vật

Xác tôm, cá (nước ngọt), gia súc, lông gà, vịt, lòng mề … cho vào hũ hay chum vại, đậy kín, ngâm cho rã rục đến khi không còn mùi thối. Lọc lấy nước phân này.

Khi dùng thì pha loãng tùy độ đậm đặc lúc ngâm chúng.

Theo các nhà trồng lan Đài Loan thì nước ngâm lông gà vịt, bột cá là tuyệt hảo đối với Hồ Điệp và không bị khuyết điểm lên rong xanh.

5. Than xương

Xương bò, heo đốt đi rồi nghiền vụn ra trộn với các chất trồng khác. Thích hợp cho vài phong lan và nhiều địa lan. Các địa lan rất thích hợp với phân hữu cơ vì chúng có nấm cộng sinh ở rễ và các vi khuẩn có sẵn trong đất giúp chúng phân hủy các chất hữu cơ trong phân thành những nguyên tố làm cho rễ lan dễ hấp thu.

Phân cho địa lan lý tưởng nhất là: phân bò hoặc mùn thực vật + than xương súc vật hoặc bột sò ốc, xương cá + bánh dầu phụng + nước tiểu. Trộn tất cả đều tay với phân lượng bằng nhau, rồi ít tro rơm hay tro cỏ và ít cát. Ủ độ 3-4 ngày cho hoai rồi đem phôi ở nền gạch cho khô, nghiền vụn ra. Cất dùng dần. Có thể dùng làm chất trồng cho địa lan hữu hiệu hơn một năm mà không cần bón thêm phân.

Hiện nay có nhiều loại phân hữu cơ đã được trích chiết dưới dạng dung dịch đậm đặc, khi dùng thì pha loãng với nước theo chỉ dẫn, rất tiện lợi.
Nguyễn Thiện Tịch (Tổng biên tập tạp chí Hoa Cảnh)

Kỹ thuật trồng lan khi tách chiết

Kỹ thuật trồng lan khi tách chiết

 
Các cây lan khi phát triển chật cả chậu lan đa thân hoặc phát triển lên cao quá lan đơn thân đều được tách chiết để trồng lại. Cách trồng lan này rất đa dạng. Sau đây là vài cách trồng thông thường nhất

1. Trồng trong chậu

Phải chọn các chậu đã được nung chín (tay ướt sờ vào không hút bám vào chậu, gõ nhẹ nghe thanh trong). Kích thước chậu cân đối với khả năng phát triển của cây. Có nhiều lỗ thoáng (cho cây có rệ mập và cây có rễ gió nhiều). Chậu phải sạch hoặc phải được rửa sạch trước khi trồng. Nếu dùng chậu cũ đã trồng rồi thì phải đốt chậu để khử trùng. Tiến hành trồng như sau:

a) Cho chất trồng to vào đáy chậu, có thể gác chéo sao cho đáy chậu được trống khoảng 1/5-1/4 thể tích chậu. Chất trồng vừa ở giữa và chất trồng nhỏ hơn ở trên mặt nhưng không đầy ngang miệng chậu mà còn chừa mép chậu 1-2cm. Chất trồng ở đây thường là than gỗ.

b) Gắn cọc ty tơ vào mép chậu nếu trồng lan đa thân hay ở giữa chậy nếu trồng lan đơn thân. Vai trò của cọc ty tơ là giữ cho cây lan được đứng vững vào lúc đầu khi rễ lan chưa bám được vào chậu. Với các chậu có gắn móc treo thì có thể buộc cố định cây lan bằng vào các dây kim loại này. Nếu không, cây lan sẽ bị lay đồng khi tưới hay lúc gió thổi sẽ làm cho đầu rễ bị tổn thương, không phát triển được.
c) Buộc cây lan và cọc ty tơ sao cho hướng phát triển của cây lan về sau sẽ quay vào giữa chậu nếu trồng lan đa thân. Phần gốc lan không chôn trong chất trồng mà chỉ để sát trên mặt chất trồng. Trong bất kỳ trường hợp nào cũng không phủ kín gốc lan, nhất là lan đa thân. Nếu cần tăng độ ẩm cho chậu lan vào mùa khô hạn thì ta có thể phủ lên mặt chậu một lớp mỏng xơ dừa hay dớn sợi, nhưng không che kín gốc lan, rất dễ thối gốc.

d) Ngay khi trồng xong nên để chậu lan ở nơi mát mẻ, ẩm độ cao cho đến khi ra rễ non và phát triển thì chuyển dần ra nơi có ánh sáng phù hợp. Tưới nước, bón phân như cây trưởng thành.

2. Trồng ghép trên thân cây (chúng tôi cũng đã trình bày phương pháp trồng lan trên vỏ cây)

Đây là cách trồng mô phỏng với cách mà cây lan sống bám trên cành cây ở trong thiên nhiên nên chúng phát triển mạnh hơn nếu so với các cách trồng khác.

Thân cây có thể còn sống, bấy giờ phải lưu ý đến tán cây mà tỉa bớt cành nhánh cho phù hợp với nhu cầu ánh sáng của cây lan muốn trồng. Tuy trồng ghép trên thân cây nhưng không phải ở vị trí nào cũng tốt. Các cây lan chỉ phát triển tốt khi chúng được ghép về phía có ánh sáng ban mai chiếu rọi vào. nghĩa là về hướng đông mà thôi. Cách trồng này rất thích hợp cho hầu hết các giống lan, đặc biệt nhất là các giống lan rừng.

Thân cây có thể đã chết, bây giờ có thể cắt thành từng khúc ngắn để treo hay thành từng đoạn dài để đứng trong chậu ở sát đất. Trong trường hợp này, phải có giàn che cho phù hợp. Dĩ nhiên là nên chọn cây lâu mục: cây vú sữa hiện nay được ưa chuộng nhất. Khi dùng thân cây đã chết, tốt nhất nên bóc vỏ đi vì khi khô, vỏ cây cũng tróc ra làm rời các cây lan và trở thành nơi trú ẩn của côn trùng phá hoại cây lan, rất khó tìm để diệt chúng.

Cách trồng được thực hiện như sau:

Buộc một miếng xơ dừa vào thân cây gỗ rồi buộc chồng lên trên đó gốc lan muốn trồng. Vào mùa khô, miếng xơ dừa sẽ giúp giữ ẩm mà không làm thối gốc lan, vì vậy đừng bao giờ làm ngược lại, nghĩa là đừng buộc chồng miếng xơ dừa phủ kín lên trên gốc lan. Luôn luôn gốc phải được nằm lộ ra trong không khí. Rễ lan sẽ ló ra và theo hơi ẩm mà mọc bám vào thân cây gỗ. Một thời gian sau, xơ dừa hư mục, ta gỡ bỏ dần đi. Trong trường hợp trồng vào mùa mưa hay những nơi ẩm quá thì khỏ cần miếng xơ dừa này.

Từ cách trồng ghép trên gỗ, ta có nhiều cách trồng tương tự như trồng trên miếng dớn, trồng trên khúc gỗ, trồng trên ống sàng, ống nhựa đục lỗ …

3. Trồng treo không chậu, không chất trồng

Trong trường hợp các cây Vanda, Ascocentrum … và các cây lai của chúng, chậu chỉ là giá thể, không có mục đích chứa hết hệ rễ của cây lan vì vậy ta thấy rễ mọc ra khỏi chậu, lòng thòng dưới chậu. Do đó đối với các giống lan này, người ta có thể trồng bằng cách buộc một sợi dây ở ngay giữa thân cây rồi treo dưới giàn lan, không dùng chậu, chất trồng gì cả, cây vẫn phát triển và ra hoa bình thường. Tuy nhiên cách trồng này chỉ có thể áp dụng ở những nơi có độ ẩm cao mà thôi.

Ưu điểm của cách trồng này là với một diện tích nhỏ nhưng mật độ cây rất lớn, không tốn kém vật tư vì không dùng chậu và chất trồng, cũng vì vậy mà không làm trĩu nặng giàn lan và cũng khó bị bệnh hơn!

Khuyết điểm duy nhất của cách trồng này là khi đem đi trưng bày thì cây trơ trụi, không chậu, có phần kém thẩm mỹ.

4. Trồng cây lan thành băng bằng xơ dừa

Cách trồng này áp dụng cho lan cắt cành như dendrobium, oncidium …

Chọn xơ dừa của những trái già khô, xẻ ra từng mảnh to bằng bàn tay (mỗi trái chia ra khoảng 4-5 mảnh)

Sắp các mảnh xơ dừa sát nhau, thành băng dài trên sạp gỗ hay tre, bề lưng quay xuống, bề ruột lõm quay lên trên. Giữ chặt chúng bằng 2 hàng nẹp tre ở hai bên.

Hoặc xếp các miếng xơ dừa theo chiều đứng thành từng hàng khoảng 30 x 50cm

Dùng các cọc tre có chuốt nhọn một đầu cắm thẳng vào giữa miếng xơ dừa để làm cọc ty tơ.

Buộc cây lan vào cọc ty tơ, gốc lan sát với xơ dừa

Tưới nước ít hơn so với trồng bằng than trong chậu. Để tránh úng nước có thể đục thủng một lỗ nhỏ ở giữa miếng xơ dừa trước khi trờng

Trồng lại sau 2 – 3 năm, khi xơ dừa đã hư mục.

Cách trồng này cũng giảm được chi phí vật tư vì xơ dừa là vật liệu dễ kiếm lại rẻ tiền mà phát triển vẫn tốt, nhảy chồi nhanh.

5. Trồng cây lan thành luống

Trong trường hợp của Vanda lá hình trụ, Renanthera, Mokara … chúng phát triển rất cao lớn nên trồng treo trong chậu không thuận tiện, hơn nữa, ta cần trồng nhiều để cắt cành hoa. Trong trường hợp này, ta phải trồng thành luống ở đất như cách trồng đậu đũa, đậu ve vậy.

a. Chuẩn bị luống:

Để tránh úng nước, cần phải đắp luống cao khoảng 15-20 cm, rộng khoảng 1 mét, chiều dài thì tuỳ theo vườn, nhưng không nên dài quá 10m vì sẽ khó chăm sóc từ luống này qua luống khác. Đất ở luống có thể cuốc lên thành từng cục càng lớn càng tốt, sao cho có nhiều lỗ hổng giữa các cục đất để được thoáng, các rễ lan sẽ chui vào đó mà lấy thức ăn. Vì vậy không đập vụn đất ra. Ở vùng đất sét, đất phèn, có thể đắp luống bằng cách dùng cát hoặc trấu đổ lấp trên mặt đất cho dày khoảng 10 – 15 cm. Dùng gỗ hay gạch đóng hay xây thành một khung hình chữ nhật chung quanh luống để giữ cho cát và trấu khỏi chảy tuột vì nước tưới hay vì mưa.

Hai bên luống dựng hai hàng cọc đứng bằng gỗ hay bằng xi măng có nẹp theo chiều ngang để đỡ cậy lan (nhiệm vụ như cọc ty tơ) Hai hàng cọc này đừng quá cao, làm khó cắt cành hoa sau này, thường chỉ cao khoảng 1 – 1,5m. Khoản gca1ch giữa hai hàng chừng 30 – 50cm.

Nơi chọn làm luống phải trống thoáng, nhiều nắng, không bị ngập nước.

b. Tiến hành trồng:

Buộc đứng các cây lan vào các nẹp, cành này cách cành kia khoảng 20cm. Gốc cành lan không chạm hay chôn vào đất. Các cành lan dài khoảng 40-50cm càng nhiều tầng rễ càng tốt, chúng thường có 2-3 tầng rễ.

Dùng gạch, chậu bể, gáo dừa, than … khoả lên mặt luống cho chạm đến gốc lan, trên cùng dùng xơ dừa đã ngâm ướt phủ lên nhưng không đè nén lại mà để nhẹ nhàng cho xốp, sắp xếp cho đều và đẹp mắt. Tính từ mặt đất lên đến xơ dừa cao khoảng 20cm, không phủ gốc lan.

Che nắng cho lan khi mới trồng bằng các phên tre hay bằng các tàu lá dừa hoặc lưới che để có khoảng 50-60% ánh sáng. Gỡ bỏ dần giàn che đi khi cây lại sự phát triển, khi có lá che chở cho nhau thì không cần che chắn gì cả. Thật ra để cây tươi tốt, phát triển nhanh, ra cành nhánh nhiều cho mục đích nhân giống thì có thể phải che một lớp lưới thưa cho có độ nắng cỡ 60-80%. Muốn ra hoa nhiều thì tăng nắng lên bằng cách gỡ bỏ lưới hay che lưới thưa hơn. Lá có thể hơi ngả vàng nhưng cây mạnh, ra hoa nhiều!

Làm cỏ để tránh cạnh tranh dinh dưỡng với lan và thường xuyên bón phân hữu cơ như phân bò ở gốc lan. Có thể trét phân bò, phân heo lên trên các nẹp tre, thân lan.

Trồng lại sau khoảng 3-4 năm.

Các giai đoạn phát triển ở cây lan

Các giai đoạn phát triển ở cây lan

Trong kỹ thuật trồng lan, chúng ta phải kết hợp các yếu tố môi trường với các điều kiện sinh lý của cây lan sao cho thật phù hợp, vì vậy mà có những phương cách trồng khác nhau ở những nơi khác nhau và ngay cả những giống loài khác nhau cũng có cách trồng khác nhau.

Trong kỹ thuật trồng lan, chúng ta phải kết hợp các yếu tố môi trường với các điều kiện sinh lý của cây lan sao cho thật phù hợp, vì vậy mà có những phương cách trồng khác nhau ở những nơi khác nhau và ngay cả những giống loài khác nhau cũng có cách trồng khác nhau. Không có một mô hình cứng nhắc trong việc trồng lan, cho nên cách trồng lan ở Đà Lạt không thể áp dụng cho miền Trung, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh hay ngược lại. Các sách chỉ dẫn cách trồng ở vùng ôn đới lại càng không thể áp dụng một cách máy móc vào nước ta được. Ngay tại thành phố, việc trồng lan trên sân thượng hay ở sân vườn sát mặt đất cũng phải khác nhau. Vì vậy mà việc trồng lan tốt đẹp ở vườn này lại khó lòng mang lại kết quả tốt ở một vườn lan khác nếu ta áp dụng một cách máy móc. Cho nên chúng ta phải rút ra những quy luật ở mỗi cách trồng để vận dụng vào mỗi hoàn cảnh cụ thể.

1. Giai đoạn nẩy mầm của hột

Vì hột lan quá nhỏ, không có chất dự trữ để sử dụng lúc nẩy mầm cho nên nó phải lấy thức ăn có sẵn do nấm cung cấp. Vì vậy trong thiên nhiên hột lan chỉ nẩy mầm được khi có nấm phù hợp. Người ta đã thay thế nấm bằng đường trong môi trườn gieo hột.

Sau khi nẩy mầm và chỉ sau khi thành lập được diệp lục tố ở lá, cây lan con mới có khả năng sử dụng CO2 để tổng hợp ra hydrat carbon cần cho sự phát triển của nó qua hiện tượng quang tổng hợp. Giai đoạn gieo hạt này được thực hiện trong các phòng nuôi cấy, nhân giống.

2. Giai đoạn cây lan con

Ở đây tất cả nhu cầu cần thiết cho phản ứng quang tổng hợp xảy ra tốt nhất cần được quan tâm để cho cây lan con phát triển tốt. Nước và muối khoáng được cung cấp trong môi trường nuôi cấy, ánh sáng của các bóng đèn dùng để thay thế ánh sáng của mặt trời. Khi đã đưa cây con ra trồng bên ngoài thì các nhu cầu ấy gia tăng hơn nhưng không lớn hơn giai đoạn cây trưởng thành.

3. Giai đoạn trưởng thành

Từ cây con đến cây trưởng thành, cây lan đã tăng trưởng phát triển theo nhiều phương cách, trong đó ta chú ý đến hai phương cách phát triển chính là phát triển cọng trụ và phát triển độc trụ. Giai đoạn này cây lan ra rễ, nhảy chồi, ra lá cho nên nhu cầu về ánh sáng, nhiệt độ, phân bón gia tăng, cao hơn giai đoạn cây con. Đặc biệt đến giai đoạn trưởng thành chuẩn bị ra hoa thì các nhu cầu ấy lại khắt khe, nghiêm nhặt hơn. Giai đoạn chuẩn bị ra hoa (thời kỳ tượng hoa) xảy ra trước khi ta thấy các chồi hoa xuất hiện trên cây lan. Mọi yếu tố tác động vào việc ra hoa phải được đáp ứng vào giai đoạn này nếu không thì chúng sẽ không có hoa.

Ví dụ: Để cây trưởng thành ra hoa, người ta dùng phân nhiều lân và kali lúc cây chưa đâm chồi hoa chứ không phải lúc cây có nụ hoa. Cũng tương tự như vậy, người ta “phơi nắng” Cattleya để chúng cho hoa khi đến tuổi trưởng thành.

Cũng cần chú ý một hiện tượng khá quan trọng ở lan trong giai đoạn trưởng thành này là thời kỳ nghỉ. Thời kỳ nghỉ có thể xảy ra rất ngắn: một hai ngày hay có thể khá dài như một vài tháng. Thời kỳ ấy có thể xảy ra trước khi có hoa hay sau khi hoa tàn. Thời kỳ nghỉ rất quan trọng trong đời sống của cây lan, nếu không được đáp ứng thì cây lan phát triển không tốt, có thể tàn lụi hoặc không ra hoa, nhất là đối với phần lớn lan rừng.

4. Giai đoạn mang hoa, đậu trái và tạo hột

Các nhu cầu vào giai đoạn này cũng khác so với giai đoạn trưởng thành. Người ta tăng bor để trái đậu có hột khoẻ. Ánh sáng và nhiệt độ phải thấp xuống để hoa lâu tàn …

Thời gian ở mỗi giai đoạn thay đổi tuỳ theo giống loài lan, thí dụ đối với Dendrobium, từ hột nẩy mầm đến cây con mất khoảng 6 tháng, từ cây con đến khi trưởng thành có hoa phải mất khoảng 8-12 tháng, từ hoa đến trái và hột chín đủ khả năng nẩy mầm mất khoảng 3-6 tháng.

Địa lan châu á: Các điều kiện phát triển được kiểm soát

Địa lan châu á: Các điều kiện phát triển được kiểm soát

 
Trong việc trồng địa lan châu á, cho dù nó được trồng trong nhà kính, trồng dưới ánh đèn hoặc bên ngoài khí hậu ôn hoà, cần phải có sự quan tâm đặc biệt đến chất trồng, chậu trồng cây và các điều kiện phát triển.

Chậu trồng địa lan châu á


Hiện nay có các loại chậu bằng nhựa của Đài Loan và Nhật Bản, một số trong chúng có thể tháo lắp được để dễ dàng kiểm tra rễ của địa lan và có các lỗ thông thoáng bên cạnh.

Nên chọn chậu phù hợp với kích cỡ và hình dáng của cây và không được kìm hãm nó. Chậu phải là nơi để cho cây phát triển mới, nhưng cần phải hạn chế sự phát triển rộng ra của bộ rễ. Tôi thích các loại chậu của Hàn Quốc để trồng Cym Sinence, bởi vì chúng rộng hơn và thông thoáng hơn, trong khí cây Cym Ensifolium trông đẹp hơn trong các chậu sáng và nhỏ hơn. Nếu bạn không muốn dùng chậu địa lan châu á, tôi khuyên nên dùng các chậu nhựa sâu hoặc chậu có thể trồng nhiều cây cùng loại trong 1 cái bình thường làm cho cây chật rễ.

Khi dùng các chậu gốm sứ mới mua về nên ngâm chúng trong nước vài ngày trước khi trồng cây để ngừa việc đất sét hút ẩm của chất trồng và kìm hãm sự phát triển của cây địa lan. Chậu tráng men cần phải được rửa sạch nhằm loại bỏ các chất bẩn, sáp hoặc chất đóng gói.

Chất trồng

Chất trồng truyền thống cần phải có độ thoát nước tốt, có hàm lượng dinh dưỡng cao, chống thối rễ, có độ thông thoáng tốt, và chi phí hợp lý. Để đáp ứng được các mục tiêu này, chất trồng phải là một hỗn hợp. Tiêu chuẩn của chất trồng mà tôi sử dụng là một hỗn hợp của vỏ thông, than củi và đá. Đá phải chuẩn được rửa sạch, chọn đá nhỏ cỡ sỏi hạt đậu. Khi trọng lượng là mối quan tâm, tôi thay thế bằng đá trân châu thô. Tôi đổ hỗn hợp vào trong một cái khay lớn và lắc đều để lựa ra kích cỡ của các hạt chất trồng.

Tôi lót sỏi hạt đậu dưới đáy chậu. Sau đó bắt đầu với hỗn hợp thô bên trên và dùng chất trồng mịn hơn nhồi vào trong chậu. Cách mặt chậu khoảng 1 inch, tôi cho hỗn hợp (đá trân châu, than củi và vỏ thông). Có nhiều lúc, tôi thích dùng hỗn hợp mảnh, ẩm. Khi tôi trồng dòng Einsifolium, tôi dùng chậu gốm hoặc chậu có lỗ thông hơi bên cạnh, tôi dùng đến 20% dương xỉ sợi để duy trì độ ẩm.

Ánh sáng

Mức độ chiếu sáng rất quan trọng đối với sự phát triển của địa lan. Thiếu ánh sáng cây sẽ yếu ớt và phát triển không bình thường. Nhiều ánh sáng quá mức sẽ làm hư hại lá cây và đặc biệt đối với các loài biến thể, sẽ làm giảm bớt giá trị thưởng thức do ánh áng làm thay đổi màu sắc của cây.

Trong suốt những tháng mùa hè, nếu trồng cây ở nơi có ánh náng, cần che bớt ở mức 50-70%. Những loài địa lan xuất xừ từ vùng núi cao hơn như Gorengi và Faberi tỉ lệ che sáng cần phải cao hơn. Trong suốt mùa đông, độ che sáng cần ở mức 20-50%. Bởi trong môi trường có độ che phủ này, cây địa lan Châu Á sẽ là ứng viên xuất sắc để phát triển dưới ánh sáng tán xạ, khó khăn duy nhất là vấn đề duy trì độ ẩm cao.

Một số ví dụ tốt nhất về Cym Sinence được tìm thẩy trong văn phòng nhà máy đóng chai nước tại Trung Quốc. Tại đây, cây địa lan châu á được đặt dưới dãy đèn chiếu sáng khoảng 4-5 feet và nơi được chiếu sáng 12-16 giờ mỗi ngày. Sự kết hợp của độ ẩm cao, thời gian chiếu sáng dài và gió thổi nhẹ là một môi trường hết sức lý tưởng.

Nhiệt độ


Nói chung, nhiệt độ lý tưởng cho sự phát triển của Địa lan là 20-30 độ C. nhiệt độ chênh lệch giữa ngày và đêm là 10 độ C. Tuy nhiên, các loại khác sẽ phát triển lý tưởng ở các mức nhiệt độ khác

Chẳng hạn, dòng Faberi và Gorengi tìm thấy trong tự nhiên ở những vùng cao có mức nhiệt độ là 15-25 độ C, và chúng có thể chống chịu được nhiệt độ mùa đông băng giá. Nhiệt độ mùa hè quá 30 độ C sẽ kìm hãm sự phát triển và khả năng ra hoa của chúng.

Mặt khác, dòng Sinence được tìm thấy ở những vùng thấp hơn, không thể chống chịu lại được điều kiện nhiệt độ xuống thấp quá 5độ C, làm kìm hãm sự phát triển, nhưng có thể chiụi đựng được nền nhiệt độ cao vào mùa hè (trên 30độ C) miễn là đảm bảo được độ ẩm cao để hỗ trợ

Sự kìm hãm tăng trưởng gây ra bởi nhiệt độ mùa hè cao được biểu hiện ở những mầm cây cằn cỗi không ra hoa trong mùa tiếp theo. Khi sống trong khí hậu có nền nhiệt độ mùa hè có thể lên đến 30 độ C cần phải tăng độ thông thoáng và sử dụng hệ thống phun sương tự động hoặc hơi mát để gia tăng độ ẩm và giữ cho nhiệt độ giảm xuống.

Độ ẩm

Có 2 thời kỳ phân biệt rõ ràng cho cả hai việc tưới nwocs và kiểm soát độ ẩm. Suốt những tháng nghỉ đông, từ tháng 10 đến tháng 3, độ ẩm cần được kiểm soát ở mức 40-60%.

Trong suốt thời kỳ tăng trưởng, giữa tháng Tư đến tháng 9, độ ẩm cẩn phải được duy trì trên 80% kết hợp với duy trì sự lưu thông không khí. Người trồng cây trong nhà cần phải nâng độ ẩm bằng cách sử dụng các khay nước đặt dưới đáy chậu cây.

Những chiếc khay này cẩn phải được nhồi đầy sỏi nhẹ để giữ cho nước không chạm vào rễ cây trong khi tạo ra tiểu vùng khí hậu cho cây. Người trồng cây ngoài trời, sử dụng mái che thuận tiện cho việc che sáng có thể kết hợp tưới buổi sáng với phun sương ẩm suốt cả ngày để gia tăng độ ẩm xung quanh cây. Khi sử dụng cách này cần lưu ý trong suốt thời kỳ cây lên mầm mới. Nước có thể đọng tại mầm cây và đó là nguyên nhân thối mầm. Việc đí sẽ giết chết mầm cây.

Sự thông thoáng


Tất cả các loài Địa lan châu á đều ưa sự thông thoáng. Kém thông thoáng sẽ tạo điều kiện cho mầm bệnh phát triển, sâu bọ phá hoại và chất trồng chóng hoai mục. Quạt gió, quạt công nghiệp và quạt thông hơi mức cao đều có thể được sử dụng. Tại nhà kính của tôi, tôi có vài dãy kệ để cây. Các giá để có lỗ, các chậu địa lan được đặt trong các lỗ đó. Sự sắp xếp này để gia tăng sự thông thoáng cho cây. Tôi cho quạt chạy liên tục để gia tăng sự lưu thông không khí. Quạt thông hơi và mái thông hơi tự động góp phần vào việc kiểm soát nhiệt độ. Nếu nhà kính nóng quá, các quạt thông gió sẽ hút gió ra ngoài để làm mát nhà kính. Tôi thường sử dụng 2 hệ thống phun sương, một để kiểm soát độ ẩm, cái còn lại hộat động tự động cùng với quạt thông gió để làm mát, và để bù đắp lại lượng hơi ẩm đã mất đi do quạt thông gió.
Tại Hàn Quốc, chậu trồng lan truyền thống có hình ống, hẹp ở giữa, miệng loe ra và có các lỗ thông hơi bên cạnh chậu cũng như dưới đáy bình. Tại Trung Quốc, chậy có thể hình vuông hoặc hình ống, có lỗ thoát nước bên cạnh chậu và có đôn để kê chậu lan. Tại Nhật Bản, chậu thường đơn điệu, hình ống với miệng chậu loe và 3 chân.
Nhiều thế kỷ, người trồng lan Châu Á sử dụng các loại chậu đặc biệt để kìm hãm sự phát triển của rễ theo bề rộng, rễ phát triển theo chiều sâu của chậu và duy trì sự thông thoáng. Đó không phải là ngẫu nhiên mà trong mỗi chiếc chậu đặc biệt để trồng các cây địa lan châu á đều có kích thước phù hợp: tỉ lệ giữa đường kính chậu và chiều dài là 1:3. Các loại chậu khác nhau về hoa văn. tất cả chúng được tráng men hoặc không tráng men.

Chủ Nhật, 11 tháng 12, 2016

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển ở cây lan (phần 3)

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển ở cây lan (phần 3)

 
Tiếp theo bài viết trước về các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển ở cây lan mà chúng ta đã đề cập là nhiệt độ, bài viết này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu hai yếu tố khác không kém phần quan trọng, đó là ẩm độ và độ thông thoáng.

C. Ẩm độ

Các cây lan, nhất là phong lan, sống bám trên các cây cao, chúng lấy nước từ các trận mưa, từ hơi nước trong không khí. Chính ẩm độ quyết định sự hiện diện của các loài phong lan.

Yếu tố ảnh hưởng quan trọng nhất đối với ẩm độ là mưa, nhưng không phải là mưa to hay mưa nhỏ mà chính là sự phân bố mưa trong năm mới thật sự quan trọng: mưa rải rác tạo độ ẩm cao hơn mưa tập trung, vì vậy mà các vùng mưa nhiều, ẩm độ cáo sẽ có nhiều phong lan.

Nước từ các trận mưa, từ không khi làm vào rễ, di chuyển qua thân và thoát hơi nước qua lá. Sự di chuyển ấy là vô cùng quan trọng đối với cây lan vì nó giúp cho việc vận chuyển thực phẩm trong cây. Nhu cầu lượng nước ấy là rất lớn cho nên phải tưới nước cho cây lan.

Cây thiếu nước vì hiện tượng thoát hơi nước xảy ra qua lá. Sự thoát hơi nước là hiện tượng bốc hơi cho nên nó tuỳ thuộc vào ẩm độ; nếu không khí no hơi nước thì không có sự thoát hơi nước, nhưng nếu không khí khô ráo thì sự thoát hơi nước gia tăng. Vì vậy vào ban ngày, ánh sáng một mặt làm cho không khí nóng khô nên cường độ thoát hơi nước tăng mau. Nhưng nếu không khí quá khô thì khí khẩu đóng lại và sự thoát hơi nước ngừng.

Sự quan hợp và hô hấp rất cần nước cho nên khi thiếu nước thì các phải ứng biến dưỡng giảm đi hay ngừng nghỉ. Sự thiếu nước xảy ra vào mùa khô, lúc ấy lá khô héo rụng đi, cường độ quang hợp thấp. Để tránh được sự bất lợi này, vào mùa khô hạn, các địa lan thường héo khô thân lá, chỉ còn củ sống nghỉ dưới mặt đất, chờ mùa mưa là phát triển trở lại. Còn đối với phong lan, sống ở vùng khô thì có lá mập và dày để dự trữ nước, có lớp cutin dày ở mặt ngoài của lá để chống lại sự thoát hơi nước hoặc phiến lá nhỏ lại hay biến thành hình trụ như trường hợp của Vanda teres, hoặc thậm chí là vàng rụng đi như Báo hỷ (Dendrobium secundum)
Nhưng không phải tất cả nước vào cây đều bị thoát hơi ra ngoài. Thật ra nước là thành phần quan trọng chiếm tỷ lệ 60-90% trọng lượng của cây lan. Nước ở trong cây ở 3 trạng thái. Phần lớn là nước tự do làm tan các chất, như nước ở nhựa cây; chính sự thoát hơi nước làm cây héo đi vì mất lượng nước này. Phần còn ại là nước liên kết như nước ở các mao quản, nước tẩm ở trong celuloz, ở trong tinh bột … và cuối cùng là nước cấu tạo dự phần mật thiết trong sinh thái của cây. Mất lượng nước này thì cây sẽ chết.

Việc chọn địa điểm thích hợp cho việc lập vườn lan sẽ giúp ta giảm được rất nhiều công sức chăm sóc cho lan, trong đó yếu tố ẩm độ là yếu tố quan trọng bậc nhất vì trong thiên nhiên chính yếu tố ẩm độ chi phối việc xuất hiện các vùng có lan. Về phương diện này, ta cần lưu ý 3 loại ẩm độ:

- Ẩm độ của vùng là ẩm độ của khu vực rộng lớn, nơi mà ta sẽ thiết lập vườn lan. Ẩm độ của vùng do điều kiện địa hình, địa lý ở nơi ấy định đoạt. Ví dụ ẩm độ của vùng cạnh sông rạch cao hơn ẩm độ của vùng đồng trống nhiều gió, ẩm độ của vùng đồi trọc sẽ thấp hơn ẩm được của vùng có vườn cây ăn trái …

- Ẩm độ của vườn là ẩm độ chính ngay trong vườn lan, ẩm độ này có thể cải tạo theo ý muốn bằng cách đào ao, làm mương rãnh, trồng cây, rải cát, làm giàn che, tưới nước …

- Ẩm độ trong chậu còn gọi là ẩm độ cục bộ, tuỳ thuộc cấy tạo giá thể (chất trồng), thể tích của chậu, loại chậu, vị trí đặt chậu, cách tưới nước, nghĩa là hoàn toàn tuỳ thuộc vào kỹ thuật của người trồng lan.

Sự hài hoà ẩm độ sẽ theo chiều thuận: từ vùng rộng lớn đến vùng nhỏ hơn. Nghĩa là nếu ẩm độ của vùng cao thì ẩm độ của vườn sẽ cao và ẩm độ của chậu cũng sẽ cao. Điều này sẽ giúp chúng ta dễ dàng điều chỉnh ẩm độ hoàn hảo nhất cho sự phát triển của cây lan. Ví dụ ở vùng có ẩm độ thấp (khô) thì ta cấu tạo giá thể bằng những vật liệu giữ ẩm mạnh như xơ dừa, hoặc tăng số lần tưới nước lên … Nhưng cần lưu ý là ẩm độ của vùng cao thì vẫn tốt hơn ẩm độ cục bộ trong chậu cao, vì ẩm độ trong chậu cao sẽ giữ nước nhiều, gây úng thối, làm hư bộ rễ của cây lan, rễ lan luôn cần thoáng chứ không chịu được sự ngộp nước. Do đó chọn địa điểm thiết lập vườn lan phù hợp sẽ giúp chúng ta giảm được đáng kể chi phí cải tạo môi trường bất lợi.

D. Độ thông thoáng

Độ thông thoáng cũng là một yếu tố cần thiết cho cây lan phát triển tốt. Không khí nơi vườn lan cần được thay đổi mỗi phút. Lượng không khí luân lưu này không những cần để làm mát cây mà còn làm thay đổi được CO2 cần thiết cho sự quan hợp của cây lan. Lượng CO2 trong không khí là khoảng 340 phần triệu. Trên mặt lá lượng CO2 này giảm nhiều vì liên tục bị cây hấp thụ vì vậy không khí cần được đổi mới liên tục để tái lập lượng CO2 chung quang mặt lá. Ở vùng thiếu thông thoáng thì rất hầm hơi, nhất là khi ẩm độ tăng, nhiệt độ tăng. Càng thiếu thông thoáng càng dễ gia tăng bệnh cho lan. Nhưng sự thông thoáng quá nhiều thì lại gia tăng sự bốc hơi nước ở cây cao, cây kém phát triển. Vì vậy ở nơi quá thông thoáng như sân thượng, nơi đồng trống … thì phải che chắn chung quanh. Khoảng cách các nẹp tre trên giàn che, độ dày của lưới che, mật độ của cây cũng ảnh hưởng đến độ thông thoáng, nhiệt độ của vườn lan.

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển ở cây lan (phần 2)

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển ở cây lan (phần 2)

 
Tiếp theo bài viết trước về các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển ở cây lan mà chúng ta đã đề cập là ánh sáng, bài viết này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu một yếu tố khác không kém phần quan trọng, đó là nhiệt độ.

B. Nhiệt độ trồng lan



Nhiệt độ liên quan đến ánh sáng vì cây cỏ thu tóm nhiệt lượng từ ánh sáng sáng mặt trởi và kế đến là toả ra được thì diệp lục tố sẽ bị thiêu huỷ, lá sẽ ngả vàng và phản ứng quang hợp bị đình chỉ. Nhiệt độ ở lá dưới ánh nắng  vào bất kỳ thời gian nào cũng luôn luôn cao hơn nhiệt độ của không khí quanh nó. Sự tổn thương do nhiệt độ tuỳ vào thời gian phơi bày ra nắng. Không khí luân chuyển sẽ giúp tránh được điều đó. Phần lớn cây lan chịu được nhiệt độ thấp của ban đêm, ngắn hạn thôi chứ không dai dẳng. Ngược lại nhiệt độ cao dai dẳng trong đêm không tốt cho cây vì tiến trình hô hấp gia tăng. Chúng ta mong muốn tăng tỷ lệ quang hợp để tạo dự trữ cho sự tăng trưởng và trổ hoa của cây lan, nhưng sự hô hấp cao sẽ dùng hết chất đường và nhựa cũng nhanh bằng lúc phản ứng quang hợp tạo ra chúng. Quang hợp thì diễn tiến suốt ngày còn hô hấp thì diễn ra suốt ngày và đêm. Bằng cách làm chậm đi sự hô hấp về đêm, thì các chất tổng hợp được ban ngày sẽ không bị sử dụng hết! Có thể làm giảm sự hô hấp ấy bằng cách hạ nhiệt độ ban đêm xuống. Như vậy sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm (biên độ nhiệt) có ảnh hưởng đến sự phát triển của cây lan.
Nhiệt độ tác động ở cây lan qua con đường quang tổng hợp. Ta biết rằng cường độ quang hợp gia tăng theo nhiệt độ: thường khi nhiệt độ tăng 10 độ C thì tốc độ quang hợp tăng lên gấp đôi. Chính vì vậy mà nhiệt độ cao làm gia tăng sự phát triển dinh dưỡng ở cây lan. Vì lý do này mà vào mùa nắng ta tăng lượng phân bón cho lan để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng gia tăng ấy.
Nhiệt độ còn ảnh hưởng đến sự ra hoa của một số lan: ở lan Bạch câu Dendrobium crumenatum đòi hỏi giảm nhiệt độ đột ngột khoảng 5-6 đô C trong vài giây đồng hồ thì khoảng 9 ngày sau chúng sẽ nở hoa đồng loạt. Ở 18,5 độ C Paphiopedilum insigne và Dendrobium nobile chỉ tiếp tục tăng trưởng mà không ra hoa nhưng chúng sẽ ra hoa khi nhiệt độ hạ xuống 13 độ C hay thấp hơn. Ở Cymbidium cũng vậy, nhưng ở đây có sự tham gia của ánh sáng. Phalaenopsis schileriana chỉ ra hoa khi nhiệt độ ban đêm giảm xuống dưới 21 độ C.

Tuy nhiên, nếu nhiệt độ quá thấp thì sẽ làm cho nước trong tế bào của cây kết tinh thành nước đá, làm gia tăng thể tích, phá vỡ các cấu trúc tế bào. Ngược lại, nhiệt độ tăng quá cao thì sự quang hợp ngừng lại vì nguyên sinh chất trong tế bào đặc quánh lại do mất nước, cây ngừng hô hấp và chết đi.

Và như vậy, chúng chỉ phát triển tốt nhất ở trong khoảng nhiệt độ cực đại là 35 độ C, nhiệt độ tối hảo là 27 độ C.

Rõ ràng nhu cầu nhiệt độ ở cây lan có khác nhau nên ta gặp chúng tập trung thành những nhóm lan khác nhau ở những vùng nhiệt độ khác nhau: lan vùng núi cao, lan vùng đồng bằng, lan vùng nhiệt đới, lan vùng ôn đới ….

Căn cứ vào nhu cầu nhiệt độ, ta chia lan ra thành 3 nhóm:

Nhóm ưa nóng: chịu nhiệt độ ban ngày không dưới 21 độ C, ban đêm không dưới 18,5 độ C. Chúng thường ở vùng nhiệt đới.

Nhóm ưa lạnh: chịu nhiệt độ ban ngày không quá 14 độ C, ban đêm không quá 13 độ C. Chúng thường ở vùng hàn đới, ôn đới và các chỏm núi cao vùng nhiệt đới.

Nhóm chịu nhiệt độ trung bình: thích hợp với nhiệt độ ban ngày không dưới 14,5 độ C, ban đêm không dưới 13,5 độ C.

Do đó, ở thành phố Hồ Chí Minh không dễ gì trồng có hoa các giống Lycaste, Cymbidium … của vùng lạnh. Ngược lại, ở Đà Lạt lại khó phù phợp với Arachnis, Dendrobium … của vùng nóng. Trong khi đó, Cattleya thích hợp cho cả thành phố Hồ Chí Minh lẫn Đà Lạt, vì chúng là giống lan xuất xứ của vùng cận nhiệt đới nên có thể trồng ở vùng nhiệt đới lẫn ôn đới, nơi nóng cũng như xứ lạnh.

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển ở cây lan (phần 1)

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển ở cây lan (phần 1)

 
Ánh sáng là tối cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của cây lan. Ánh sáng đem năng lượng cần thiết cho phản ứng quang tổng hợp:

 A. Ánh sáng ảnh hưởng đến sự phát triển ở cây lan

Ánh sáng là tối cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của cây lan. Ánh sáng đem năng lượng cần thiết cho phản ứng quang tổng hợp:

nCO2 + 2n(H2O) —-> (CH2O)n + nO2 +nH2O dưới điều kiện ánh sáng

nhờ vậy mà cây lan tạo ra được chất dinh dưỡng. Khi ánh sáng ít (vì cường độ sáng yếu hoặc thời gian chiếu ánh sáng ít (vì cường độ sáng yếu hoặc thời gian chiếu sáng không lâu) thì cây không tạo ra đủ đưỡng liệu để sống. Nếu mỗi ngày chỉ có 8 giờ sáng thì nhiều câu không thể sống được.

Vì cường độ quang hợp tỷ lệ thuận với cường độ sáng cho nên những ngày nắng, cây cần nhiều nước và muối khoáng để tạo ra dưỡng chất hơn là lúc trời âm u, đó là lý do khiến ta phải tăng lượng nước tưới và phân bón vào mùa nắng, giảm đi vào mùa mưa hoặc không nên bón phân vào những ngày trời âm u, tối.
 
Ánh sáng gia tăng dần từ 7 giờ, cực đại vào lúc trưa rồi giảm dần vào buổi chiều. Sau 17 giờ và trước 7 giờ cường độ sáng không đáng kể. Vì cường độ sáng cực đại vào lúc trưa nên nếu cây lan tiếp xúc với nắng lúc ấy thì sẽ dễ gây ra hiện tượng cháy lá nên phải làm giàn che.

Ánh sáng còn chi phối việc ra hoa ở một số loài. Hầu hết các giống Cattleya, Dendrobium … nếu thiếu sáng thì cây không ra hoa, vì vậy các nghệ nhân thường “phơi nắng” để ép chúng ra hoa.

Ánh sáng cần thiết cho sự quang hợp, nhưng nhu cầu ấy lại khác nhau ở mỗi cây lan. Đối với những cây chịu rợp (thường mọc dưới tán rừng dày), khi cường độ sáng yếu thì cường độ quan hợp đã gia tăng cực đại, nếu gia tăng cường độ sáng hơn nữa thì nó lại ngừng quang hợp. Ngược lại, ở cây chịu sáng như Renanthera, Vanda lá hình trụ …, cường độ quang hợp tăng theo cường độ sáng nên đối với những cây này khi ánh sáng yếu thì cường độ quang hợp giảm đo đó chúng sẽ thiếu thức ăn, cây sẽ suy yếu hoặc không có hoa.

Tuỳ theo nhu cầu ánh sáng, ta chia lan ra làm 3 nhóm:

Nhóm ưa sáng: đòi hỏi ánh sáng nhiều, khoảng 100% nắng trực tiếp. Gồm các loài của Vanda lá hình trụ, Arachnis, Renanthera …
Nhóm ưa nóng: đòi hỏi ít ánh sáng, khoảng 30% ánh nắng như các giống Phalaenopsis, Paphiopedilum …
Nhóm trung gian: có nhu cầu ánh sáng khoảng 50% đến 80% ánh sáng như Cattleya, Dendrobium …

Tuỳ theo nhu cầu ấy mà ta quyết định cách thức làm giàn che cho phù hợp. Tuy nhiên, nhiều nhân tố như nhiệt độ, độ ẩm, độ thông thoáng … tác động vào khả năng chấp nhận ánh sáng của cây lan. Vì vậy, ta thấy có nhiều chậu lan Cattleua hay Dendrobium, thậm chí cả Ngọc Điểm (Rhynchostylis gigantea) theo lý thuyết chỉ thích hợp với độ nắng 80% trở xuống lại có thể sống tốt và ra hoa ở ngoài nắng 100%.  Vấn đề độ ẩm, độ thông thoáng và cả nhiệt độ ở nơi trồng chúng đã giúp chúng thích nghi với lượng nắng cao hơn nhu cầu . Trường hợp các cây lan có thể phát triển tốt và ra hoa dưới cường độ sáng cao hơn mức bình thường nếu sức nóng thừa ở cường độ ấy được giải toả một cách hiệu nghiệm; vì vậy khi nắng gắt, nhiệt độ cao chúng ta làm hạ nhiệt độ bằng cách tăng độ ẩm (tưới vườn) tăng sự thông thoáng (quạt gió). Ngược lại trong mùa mưa, mây phủ nhiều ngày rồi buổi sáng hôm sau trời trong, nắng gắt, các cây bị nóng nhanh, hơi nước thoát ra nhanh khiến rễ cây không cung cấp kịp nước, cây trở nên xác xơ. Trong trường hợp này nụ hoa là phần mong manh nhất của cây lan, sẽ bị tổn thương trước hết: quặt quẹo, vàng và rụng nụ – hoặc chóng tàn ….

Có mối liên hệ giữa ánh sáng cao và nhiệt độ cao đã làm cản trở việc phát triển các cây lan vùng nhiệt đới. Việc cung cấp đủ ánh sáng cho cây thích bóng râm là tương đối dễ, nhưng cung cấp đủ ánh sáng cho cây mọc bình thường ngoài nắng là điều khó khăn vì khi cường độ sáng tăng thì sức nóng tăng, khó lòng làm thoát nhiệt độ dư thừa đó – vì vậy mà ở vùng lạnh như Đà Lạt, Sapa … Lan Hồ Điệp (Phalaenopsis), Lan Hài (Paphiopedilum) dễ phát triển hơn là Vanda, Mokara … Nếu cây lan nhận được ánh sáng quá thấp, dưới nhu cầu thì lại nảy sinh những vấn đề khác: Những hành giả mới thường yếu và cao lỏng khỏng, lá xanh đậm khác thường, sự ra hoa giảm hoặc không có hoa.

Dù ở ngay tại một vườn lan, cây lan vẫn nhận được ánh sáng có mức độ khác nhau do vị trí của nó: ở bìa vườn hay giữa vườn, bóng lá của cây này so với cây kia. Vị trí của lá là yếu tố không thể bỏ sót trong việc ánh sáng có vào được tối đa hay không. Vì vậy mật độ cây có ảnh hưởng đến tình trạng cây.

Thời gian có ánh sáng, gọi là độ dài của ngày, kiểm soát sự phát triển chồi hoa ở một số giống loài lan, một số cây tạo nụ hoa lúc ngày ngắn, số khác tạo nụ hoa lúc ngày dài. Biết được điều này ta có thể điều khiển cho chúng trổ hoa theo yêu cầu.

Địa lan châu Á

Địa lan châu Á

 
Xuất xứ từ Trung Hoa, tính phổ biến của các loại Địa lan được lan truyền đến các khu vực của Châu Á và ngày nay lan ra cả thế giới. Nó là một đạo lý và đạo chơi lan được truyền bá rộng khắp bởi những người yêu lan, và trong văn hoá Á châu nó được tôn trọng, để cho và nhận hoa lan như một món quà tặng. Giống thư thời xưa, địa lan được coi là món quà của sự kính trọng và bằng hữu

1. Một khám phá


Các loại địa lan mà tôi đã quan sát tại Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan và Nhật Bản là các đối tượng nghiên cứu của tôi. Chúng tươi tốt, hoành tráng, khoẻ mạnh, duyên dáng và cho ra những cành hoa đẹp, thơm ngát.

Bí quyết nào đã được người trồng lan sử dụng để có được các cây đẹp và tràn đây sức sống? Liệu với một chút tìm tòi tôi có thể tái tạo ra các điều kiện đó trong nhà kính của tôi và đạt được các kết quả tương tự hay không? Thắc mắc trên đã trở thành niềm thôi thúc tôi đi giải mã các bí mật của cây Địa lan Á Châu. Tại mỗi quốc gia tôi ghé qua, tôi đã dành một số thời gian để tới các miền quê, thăm những người trồng lan, thảo luận các điều kiện sinh trưởng và cố gắng học hỏi các bí quyết của họ.

Từ những cuộc thảo luận đó, tôi đã tập hợp được thành một tập nghiên cứu về các nhân tố truyền thống ,kỹ thuật và phương pháp để cây khoẻ mạnh. Trên đường trở về Mỹ, Tôi bắt đầu ứng dụng các phương pháp này cho bộ sưu tập các cây địa lan Á châu của tôi. Và như vậy, sự tìm hiểu lại của tôi đã khiến tôi trồng được các cây lan độc.

2. Chuyện địa lan Á châu

Ở Trung Quốc, Địa lan trở thành một phần của câu chuyện thậm chí có từ trước nền Văn minh phương Tây. Suốt câu chuyện Trung Hoa địa lan đã là biểu tượng tuyệt vời và mối giao hảo cũng như kiến thức về loài hoa thanh tao và ngát hương thơm. Vào khoảng năm trăm năm trước Công nguyên, Khổng Tử đã so sánh hoa lan với các phẩm chất đạo đức trong giáo dục:

Bông hoa lan cô độc, đứng, tô điểm cho mặt núi, tỏa hương thơm vào không khí khó có gì có thể diễn tả được. Một người quân tử, học đạo đức và triêt lý thì thường là người hào hoa phong nhã, không giàu có gì.

Khổng Tử cũng đã ví Hoa lan là “Vua của hương thơm” (,…vương giả chi hương,…???) một chân lý còn mãi với thời gian và vẫn đúng cho tới ngày nay. Đã có nhiều cuộc tranh luận của những người mê lan về mối liên quan và tính kế thừa giữa các loại lan giữa các quan điểm đã tồn tại vào khoảng 500 năm TCN và ngày nay.

Thời xưa, giới quý tộc sưu tầm các loại địa lan. Các loại lan thường được khai thác ở các vùng núi cao và được mang về trồng. Các tính chất tự nhiên của cây làm cho nó có giá trị. Giới quý tộc thường tìm kiếm trồng và chăm sóc các loại địa lan mang các đặc điểm riêng (cây độc). Các loại lan độc được giải thưởng cao, sẽ được họ chia tách ra. Vua chúa và quan lại thưởng thức các bông hoa đặc biệt. Họ trồng cây vào các chậu được chế tác rất tỉ mỉ công phu và thường được trao đổi hoặc dâng tặng cho quan lại. Dĩ nhiên, cây càng độc thì càng có giá trị. Các buổi đàm đạo được bắt đầu bên bàn trà, đốt hương trầm và luận về hoa lan và các điều kiện trồng nó.

Thời nhà Nguỵ, vào khoảng năm 220 đến 265 sau công nguyên, nghệ thuật trồng lan của tầng lớp quý tộc được phát triển cao hơn, họ đã đặt ra các tiêu chuẩn cho hoa lan trưng bày làm cảnh. Các giá trị đó đã thay đổi Cho đến thời nhà Đường năm 618 đến 907 Sau công nguyên và được trưng bày ở các vườn lan, giá trị và tính phổ thông của hoa lan đã làm cho nó đến được với tầng lớp trung lưu. Thậm chí, với tính phổ thông ngày càng cao của địa lan, đạo chơi lan được phát triển lên mức độ cao dưới thời nhà Đường với nhà thơ nổi tiếng đời Đường là Lý Bạch.

Hoa lan sáng tỏa hương thơm ngát trong ngọn gió xa, hương thơm trinh nguyên cuộn chảy thành dòng.

Xuất xứ từ Trung Hoa, tính phổ biến của các loại Địa lan được lan truyền đến các khu vực của Châu Á và ngày nay lan ra cả thế giới. Nó là một đạo lý và đạo chơi lan được truyền bá rộng khắp bởi những người yêu lan, và trong văn hoá Á châu nó được tôn trọng, để cho và nhận hoa lan như một món quà tặng. Giống thư thời xưa, địa lan được coi là “món quà của sự kính trọng và bằng hữu”

3. Các loại địa lan Trung Hoa

Tập hợp các loại địa lan gồm có 44 loại truyền thống có xuất xứ từ lục địa Châu Á. Địa lan Trung Hoa là một phân nhánh của tập hợp này gồm có 5 loại. Chúng được gọi là Cymbidium Jensoa. Nhiều tài liệu tham khảo gọi là Địa lan Châu Á hoặc gọi là Địa lan Trung Hoa, thực ra chúng được tìm thấy cả ở Trung Hoa, Đài Loan, Nhật Bản và trong các miền của Thái Lan và Việt Nam.

Khi đối chiếu các văn bản Trung Quốc, Nhật Bản hoặc Hàn Quốc với các tài liệu của Phương Tây thì thấy có sự không đồng nhất do cách đặt tên và có rất nhiều sự biến đổi tên trong các nhóm loài. Năm loài của Trung Quốc trùng với năm loài chính của dòng Cym Jensoa.

Nhứng văn bản dịch tiếng Anh không liên quan đến thời kỳ ra hoa thực sự, hoặc mùi hương của loài. Mặc dù loại Faberi vô cùng thơm, xong đều là các loại Ensìolium, Karan, Georengii và một số biến thể của dòng Sinense. Trong mỗi nhóm địa lan có thể có đến 30 biến thể đã được ghi nhận.

Những biến thể này được xác định bởi màu sắc của hoa, dáng của lá và các biến thể màu lá. Những biến thể về màu hoa và biến thể lá là những cây được tìm kiếm nhiều nhất. Những loại địa lan lai đã có tại Châu Á. Chúng khó lai tạo, phải mất đến 5 năm để cho ra những cây lai. Để hiểu tốt hơn về các loài biến thể và giá trị của cây cần có sự hiểu biết vài đặc điểm cơ bản của cây.

4. Kết cấu của Cây

Cây địa lan Châu Á thường rất khoẻ mạnh. Mỗi sự tăng trưởng là một giả hành mà nó được tách ra từ các của bẹ khác hoặc củ của cây mẹ. Mỗi giả hành đều có một bộ rễ độc lập.

Trái với rễ của cây địa lan lai, rễ của cây địa lan châu á rất ít khi phân nhánh và do vậy rễ không đan xen vào nhau. Thân cây mới thường rất ngắn, 2-3cm và hẹp 1.5cm. Thân cây đỡ nhiều lá, chúng phân nhánh từ mặt chậu.

Giả hành đóng vai trò là nơi dự trữ nước và chất dinh dưỡng chính cung cấp cho cây. So với các loại lan khác, giả hành của địa lan nhỏ và không thể dự trức được nhiều nước, vì vậy cần phải tưới nước thường xuyên trong suốt quá trình sinh trưởng của chúng (Xem các điều kiện phát triển)

Đối với những người sưu tập lan Châu Á thì lá của địa lan gần như quan trọng hơn cả hoa. Lá cây có thể rất dày và dài phụ thuộc vào các loài. Chẳng hạn, Cym georengii có thể đến 1cm và dài 6inch, trong khi loại Cym Siense có thể đến 4cm và cao đến 18inch. Hầu hết lá cây phẳng nhưng một số có hình bầu dục giống như "Tu Er Lan" (Lan tai thỏ)

Một số biến thể khác bao gồm lá cong, vặn và xoắn, nhưng điều quan trọng nhất đối với những người sưu tập lan là đó là những hình thái của biến thể khảm (điểm nhiều đốm màu khác nhau). Biến thể khảm đã xuất hiện qua quá trình tiến hoá và tiến xa hơn qua quá trình lai tạo. Những biến thể đó có thể được phân loại thành vài loại dựa vào hình mẫu của biến thể và màu sắc. Nói chung, biến thể khảm được coi là các biến thể mạnh mẽ hơn, được quan tâm hơn và có giá trị hơn.

Hoa

Hoa của cây địa lan châu á thường nhỏ, khi so dánh với hầu hết các loài địa lan khác. Ngồng hoa có thể cao gấp 2 lần chiều cao của cây. Số hoa, hình dáng hoa, hương thơm và thời gian tàn của hoa thay đổi tuỳ từng loài. Trong mỗi loại, các biến thể được đặt tên dựa vào màu sắc của hoa.

Chẳng hạn, trong dòng Sinence, có các biến thể hoa mà hầu như được biến thiên từ màu đen chủ đạo, như sinense "San Chuan", hoa có màu vàng tuyền như loại "Wu Tsu Tsai", màu đỏ như sinense "Ta Ming" và có màu trắng tuyền như sinense "Bai Mo Su". Các loại hoa có thuần 1 màu là có giá trị nhất.

5. Địa lan châu á: Điều kiện phát triển tự nhiên

Để hiểu tốt hơn nhu cầu sinh trưởng phát triển của lan cần phải hiểu được các điều kiện làm cho nó phát triển một cách tốt nhất trong thiên nhiên. Địa lan châu á đặc trưng sống ở các vùng núi cao, trên các mỏm đá bao bọc bởi các lùm cây và dưới các rừng tre. Dưới các điều kiện độ ẩm cao, nhiệt độ ở mức vừa phải và các cây cối cao che bớt ánh nắng mặt trời. Rễ tre và các mỏm đá bao bọc lấy các rễ của cây lan.

Nhiệt độ ngày càng giảm trong khi độ ẩm tăng. Những trận mưa trên đỉnh núi phụ thuộc vào từng mùa, gió nhiều và khoảng cách từ núi tới biển. Thậm chí, vào mùa đông, không khí khô hơn và mưa ít.

Làm sáng tỏ trong môi trường sống tự nhiên, đôi khi có thể thấy rằng các cây địa lan ưa sống trong nhà trên bậu cửa sổ hoặc dưới ánh đèn, dòng Cym Sinence là dễ dàng nhất. Nó có thể thích nghi với điều kiện độ ẩm thấp hơn và phát triển mạnh mẽ nhất trong điều kiện nhiệt độ ôn hoà. Cây Cym Faberi yêu cầu độ ẩm cao hơn và không thể thích nghi với nhiệt độ cao hơn.

Trong suốt cuộc hành trình tới Phương Đông của tôi, tôi đã thuyết minh một sự đánh đánh giá mới cho các loài địa lan Á Châu. Trước thời gian này, tôi rất đam mê lan, có vài cây Địa lan Á Châu trong bộ sưu tập, nhưng các cây kém phát triển này đã bị xếp xó trong nhà kính, đó là điển hỉnh báo trước cho các cây phải vật lộn để sống sót. Đó là động lực thúc đẩy tôi đi tìm lý do tại sao các cây của tôi kém phát triển, đó là tôi đã không hiểu các cây của tôi cần gì.