Văn hoá thưởng thức địa lan Kiếm của người TQ và người Đông Á
Điều
đáng chú ý nhất là các sách báo Trung Quốc viết về lan, chỉ chú trọng
đến địa lan Kiếm, rất ít sách nói đến các loài lan khác. Sách hướng dẫn
nuôi trồng, phân loại, săn tìm và thưởng thức địa lan Kiếm được viết
liên tiếp từ đời này sang đời khác và được bổ sung không ngừng.
Đức Khổng Phu Tử (551-497 trước Công nguyên) đã lấy khí tiết của địa lan Kiếm, dù ở thâm sơn cùng cốc mà vẫn toả hương khoe sắc, để răn dạy các bậc quân tử phải gắng tu thân. Các nhà văn hoá lớn ở các triều đại Trung Quốc cũng rất ca ngợi lan như: Khuất Nguyên, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy, hay các vị Hoàng đế như Khang Hy đến các nhà cách mạng gần đây như Chu Đức, Trương Học Lương, Đổng Tất Vũ, Trần Nghị cũng làm nhiều bài thơ ca ngợi địa lan Kiếm.Lan Kiếm (Cymbidium) là một chi trong họ Lan. Lan Kiếm có những loài bám trên cây, chúng ta gọi là phong lan Kiếm (Epiphytic Cymbidium) và có những loài mọc trên đất, được gọi là địa lan Kiếm (Terrestrial Cymbidium).
Địa lan Kiếm có các đặc thù sau:
– Lá lan hẹp bản, dài, lả lướt, đầu nhọn.
– Ba cánh đài của hoa xoè rộng, hai cánh hoa hơi úp lại, che phía trên của nhuỵ hoa. Cánh môi thường cong, có điểm các màu.
– Cành hoa thẳng từ dưới lên, có loài lan cành hoa không cao hơn đám lá, nhưng nhiều loài hoa cao hơn đám lá.
– Hoa nở khá bền (từ 10 đến 30 ngày) nhiều loài hoa rất thơm nhưng dịu, không hắc như nhiều loài hoa khác.
Cuốn sách về lan đầu tiên của loài người là cuốn Kim Chương Lan Phổ của Triệu Thời Khang viết vào năm 1233 mô tả 30 loài địa lan Kiếm, chủ yếu là Mặc lan.
Cũng vào thời kỳ này Triệu Mạnh Kiên đã vẽ Xuân Lan Đồ (hiện còn được gìn giữ tại Viện Bảo tàng Cố cung Bắc Kinh).
Địa lan Kiếm sống ở các thảm rừng núi chủ yếu là ở 16 tỉnh miền Trung và Nam Trung Quốc, vô cùng phong phú. Các nhà khoa học phân loại thành 28 loài trong đó chỉ có 11 là các loài lan Kiếm mọc trên đất (địa lan Kiếm). Tuy vậy chỉ có 6 loài được tôn vinh và chăm sóc như Quốc hoa: Xuân lan (Cymbidium Goeringii), Xuân Kiếm (Cym Longibracteatum) Kiến Lan (Cym. Ensifolium), Mặc lan (Cym Sinense), Hàn lan (Cym Karan).
Điều đáng chú ý nhất là các sách báo Trung Quốc viết về lan, chỉ chú trọng đến địa lan Kiếm, rất ít sách nói đến các loài lan khác. Trong mười năm gần đây mới có sách viết về các giống phong lan lai đã nuôi trồng công nghiệp hoá như: Hồ điệp, Hoàng thảo, Cát lan.
Các loài địa lan Kiếm mọc trong rừng sâu, được tuyển lựa đưa về các vườn Thưởng uyển do các “Lan quan” chăm sóc. Sau đến dinh các vị quan lại, các mảnh vườn của các nhà văn hoá lớn, các nhà giàu có, dần dần thành một ngành trồng trọt trong dân, bên cạnh một ngành săn lùng lan trong rừng sâu, núi cao.
Sách hướng dẫn nuôi trồng, phân loại, săn tìm và thưởng thức địa lan Kiếm được viết liên tiếp từ đời này sang đời khác và được bổ sung không ngừng. Ngày nay không kể các sách viết về lan ở Trung ương mà các địa phương cũng viết rất nhiều sách về địa lan Kiếm. Nghệ thuật chụp ảnh hoa lan đạt tới trình độ cao nên ảnh trong sách rất đẹp.
Nền giáo dục cổ xưa của Trung Quốc và các nước Đông Á như: Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam thường uyên thâm, trừu tượng, liên tưởng sâu sắc từ một sự kiện cụ thể, nhỏ nhoi nhưng bao giờ cũng đi tới những hiện tượng to lớn hơn nhiều:
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ tận tri thu
(Một chiếc lá ngô đồng rơi, cả thiên hạ đều cảm thấy mùa thu).
Do đó các sách viết về địa lan Kiếm đều khá chú ý đến hướng dẫn chiêm ngưỡng lan và giới thiệu các lời nói của các vị hiền triết cùng với các bài thơ hay nhất nói về lan của các nhà văn hoá nổi tiếng.
Người ta phân biệt rõ hai hoạt động: chăm sóc lan là các hoạt động lí trí mang tính khoa học kỹ thuật, nhưng thưởng thức lan là hoạt động mang tính nghệ thuật, thẩm mỹ, tình cảm. Thường người ta hiểu thưởng thức địa lan Kiếm trong 4 chữ:
* Hương, Sắc, Tư, Vận
– Hương lan Kiếm được tôn là Vương giả chi hương, thiên hạ đệ nhất hương, hương thanh, không hắc, nhưng đậm đà, khó quên, thoắt ẩn thoắt hiện, như gần như xa.
– Mầu sắc của hoa lan là mầu sắc của 3 cánh đài, của 2 cánh hoa, của cánh môi, của họng hoa, của lá. Thiên nhiên đã vô cùng tỉ mỉ tuyển lựa mầu, tô vẽ cho các phần của hoa rất phong phú, nhưng thanh nhã không quá sặc sỡ.
– Tư là dáng vẻ của cây địa lan Kiếm được đánh giá thanh cao cốt cách, phong độ hiên ngang, nhưng vẫn rung rinh trước gió, hài hoà giữa cương và nhu.
– Vận là chỉ ý vị của địa lan Kiếm, đây là điều tự hào nhất của tất cả các dân tộc Đông Á – Chiêm ngưỡng lan dần dần sẽ tự thấy có sự thống nhất cái đẹp bên ngoài của cây lan với “cái thần” thẳm sâu bên trong, hình thành sự liên tưởng chặt chẽ sâu sắc, cửa sổ trí tuệ văn hoá như được mở rộng, khơi thông thế giới tinh thần, hướng tới Chân-Thiện-Mỹ.
Địa lan Kiếm đã chiếm vị trí độc tôn hàng nghìn năm trong văn hoá của người Đông Á, nhất là ở Trung Quốc, nên sự tuyển lựa và chăm sóc rất tinh vi đã hình thành các quan điểm, các học thuyết về thẩm định lan.
Quan điểm địa lan Kiếm là “Bách hoa chi anh” nên phải có sự kết hợp của hoa lan với nhiều loài hoa quý khác. Bằng các sự tuyển lựa chăm sóc đặc biệt nên hình thành rõ rệt bốn chủng lan có các cánh đài từ hình lá trúc tới hình cánh hoa sen, cánh hoa thuỷ tiên và cánh hoa mai. (Hình 1)
Quan điểm vật dĩ hy vi quý (vật hiếm được quý trọng) các giống lan có biến dị được quý hơn vì hiếm có.
– Biến dị về vị trí cánh đài ở hai bên được gọi là vai (Hình 2)
– Biến dị về lá, lá ngắn đi, có viền ở mép đầu lá, có viền ở mép từ gốc tới đầu, lá có các đốm – thường là viền có mấu trắng hoặc ngà. (Hình 3).
– Biến dị về hoa, hoa có nhiều cánh, hoa có 3 cánh môi.
– Quan điểm về thẩm định mầu sắc.
Luận về ý nghĩa mầu sắc của hoa lan được ghi rõ như sau:
Mầu trắng: thanh khiết, trang nhã, cao quý.
Mầu trắng ngà: dịu dàng, thanh cao, duyên dáng
Mầu hồng, màu đỏ: rực rỡ, nồng nhiệt, may mắn.
Mầu lục: thanh tân, tao nhã, sống động, hấp dẫn.
Mầu tía: yêu kiều, đằm thắm, dịu dàng, chân thành
Mầu tím: thanh cao, đằm thắm, mộng mơ.
Mầu vàng: trong sáng, thần bí, kiêu sa, thanh nhã.
Mầu hồng đỏ: huy hoàng, hào hoa.
Mầu đen: tráng lệ, uy nghiêm, thần bí, độc đáo.
Nhiều mầu: sặc sỡ, phồn vinh – hoa lệ.
Pha lê trên cánh hoa (và trên lá): Kỳ diệu, lung linh, cao quý, trong sáng, ngọc ngà.
Bảng phân loại lan theo các quan điểm trên.
Gần đây nhiều nhà nghiên cứu về thẩm định lan đưa ra việc gắn sao cho các giống lan – từ 1 sao đến 5 sao, từ lương phẩm (loại thường) đến giai phẩm, quý phẩm – cao quý phẩm cuối cùng là cực phẩm (tinh phẩm).
Các loại được xếp cực phẩm thường có nhiều biến dị về hoa và về lá và được gọi là lan nghệ thuật.
Nhiều sách của Trung Quốc cũng giới thiệu và đánh giá khá chi tiết về các giống lan ở Đài Loan, Nhật Bản và Triều Tiên.
Có 4 dòng Xuân lan nổi tiếng của Trung Quốc và người Nhật cũng ca ngợi các loài này là Tứ đại Thiên Vương của Quốc hoa Nhật. Người ta cũng so sánh thấy Xuân lan của Trung Quốc thơm hơn Xuân lan Nhật Bản, nhưng màu sắc Xuân lan của Nhật Bản lại phong phú hơn, có giống mầu vàng, màu tím, mầu đỏ, màu trắng hoặc đa sắc.
Cho đến nay hàng ngàn giống địa lan Kiếm của Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc đã được đạt tên trên cơ sở: loài lan, cánh đài giống hoa sen, hoa mai, hay hoa thuỷ tiên, mầu sắc, địa phương đặc biệt có loài hoa đó, hoặc một đặc điểm riêng Huệ lan hoàng thuỷ tiên, (Huệ lan cánh hoa thuỷ tiên mầu vàng). Liên biện lan Vân Long Hoàng hà – (Lan cánh sen vàng, rồng vần mây).
Địa lan Kiếm, có cành hoa thẳng, lá lan dài lả lướt rất thích hợp với nét vẽ mực mài bút lông nên các hoạ sỹ Đông Á tha hồ múa bút để biểu đạt lý tưởng và tình tứ, hình dáng và tinh thần gắn liền nhau, ý nghĩa rất sâu sắc.
Trong nhóm Bát quái Dương Châu (Trung Quốc) đặc biệt là Trịnh Nhiếp (tự là Bản Kiều) đã dành 50 năm của cuộc đời để vẽ về địa lan Kiếm (và tre trúc) để lại cho đời những tác phẩm rất quí giá.
Địa lan Kiếm phát triển tốt ở nhiệt độ từ 10°C đến 30°C. Đặc biệt chúng cần đêm lạnh xuống dưới 15°C và ban ngày trên 25°C để hình thành mầm hoa. Do đó chỉ ở phía Bắc của Việt Nam mới có thú chơi địa lan Kiếm.
Người nổi danh nhất trong giới chơi lan của Việt Nam là vua Trần Anh Tông (thế kỷ XIII) có Ngũ Bách Lan Viên “Vườn 500 chậu lan”. Các loài địa lan Kiếm tồn tại trong các thảm rừng ở Việt Nam tới ngày nay chỉ có 5 loài, có tên khoa học: Cymbidium Cyperifolium, Cym Ensifolium, Cym Insigne, Cym Lancifolium và Cym Sinense. Chúng bao gồm các giống lan có mầu tím sẫm, màu lục, mầu trắng, mầu vàng v.v… như: Đại Mặc, Hoàng Vũ, Thanh Trường, Bạch Ngọc v.v…
Địa lan Kiếm hoa nhỏ và không rực rỡ, hương thơm dịu nên chưa thực hấp dẫn nhiều người dân Việt Nam như hoa hồng, hoa sen, hoa huệ, hoa cúc. Vì vậy các tao nhân mặc khách yêu lan thường tự hào với nhau về câu nói cổ xưa:
Thức giả thị bảo, Bất thức giả thị thảo
Biết thì quý như báu vật – không biết thì coi như cây cỏ.
Cũng lý do đó địa lan Kiếm không phải là loài cây hoa mang tính hàng hoá như: cúc, sen, hồng, huệ v. v… Mỗi gia đình yêu lan chỉ trồng độ 5, 10 chậu, sớm chiều nâng niu chăm sóc. Khi có hoa nở lại tụ họp, trà quý, rượu ngon, những bài thơ hay được mang ra bình phẩm thâu đêm. Địa lan Kiếm là vật biếu, quà tặng rất quý giá.
Các bài tạp văn, tuỳ bút của Phạm Đình Hổ, của Nguyễn Tuân còn nói rõ thú chơi lan rất trang nhã của các nho sỹ Việt Nam thời xưa.
Tâm lý thích truyền thống, không ca ngợi biến dị nên có lẽ các giống địa lan Việt Nam còn giữ nguyên gốc tự nhiên như cánh hoa lá trúc, lá một màu lục biếc – Vài giống có biến dị về lá như Mặc biên (có viền ở lá) không quý bằng Đại mặc hoặc Ngân biên, Kim biên có viền trắng, viền vàng ở mép lá, không quý bằng Bạch Ngọc Đại Kiều v.v…
Tuy vậy có một số người chịu ảnh hưởng của các lan hữu Trung Quốc như ca ngợi Vai bằng, Vai bay hơn vai xuôi.
Nhưng sự biến dị về hoa như cả 3 cánh hoa đều biến thành cánh môi, hoặc hoa có rất nhiều cánh thì hoàn toàn không được chấp nhận. Phải chăng vì nỗi đau của cả dân tộc Việt Nam chịu đựng sử huỷ hoại của chất độc da cam làm biến dạng con người và cây cỏ nên không ưa các hoa lan biến dị được coi là quái gở.
Kiến lan (Cym Emsifilium) được đưa sang Châu Âu vào đầu thế kỷ 18. Người chơi lan Châu Âu không ưa địa lan Kiếm, chê là hoa nhỏ, màu xỉn, hương thơm gia vị. Thái độ này khác hẳn với sự nồng nhiệt đón tiếp các giống Cát lan từ Nam Mỹ tới hoặc lan Hài hồng (Paphiopedilum Delenatii) đưa từ Việt Nam sang.
Nhưng các nhà thực vật lại đánh giá cao địa lan Kiếm. Vì có khoảng nhiệt độ sống khá rộng (5°C-37°C) ít sâu bệnh và dễ lai tạo. Chính vì vậy người ta đã lai tạo ra các giống địa lan Kiếm lai, cây to hoa lớn, mầu sắc sặc sỡ, rất hợp với sở thích người Châu Âu, thích hoa được cắt cành. Người Đông Á không đón nhận các giống hoa lan lộc ngộc này.
Mặt khác, người Đông Á không bao giờ cắt cành hoa địa lan Kiếm để cắm lọ. Với quan điểm 11 tháng chơi lá, 1 tháng chơi hoa nên chậu địa lan Kiếm không có hoa vẫn là một vật trang trí lịch sự trong các phòng khách.
Trong các bài thơ về lan của Trung Quốc cũng như Việt Nam, xưa và nay có hai điều đáng nói: không có bài thơ não nùng ai oán vì liên tưởng hoa thơm chóng tàn, người đẹp thì “bạc mệnh”. Chắc vì hoa lan kiếm khá bền. Mặt khác cũng không ai buồn vì hoa lan biết nói. Nhà thơ đời Đường, Lưu Vũ Tích đã lo lắng hộ các cụ già, không còn được hưởng những cái đẹp trên đời, chỉ còn có hoa và nếu hoa biết nói
Đãn sầu hoa hữu ngữ
Bất vị lão nhân khai.
Buồn vì hoa nói lên lời
Rằng hoa chẳng nở cho người già nua
(Tản Đà dịch)
Thực ra chiêm ngưỡng hoa địa lan Kiếm cần có tâm hồn thư thái, bình tĩnh, ngồi lâu thấm thía dần dần: sắc nhã, hương dịu, dáng thanh. Điều này rất thích hợp với người cao tuổi, nhàn nhã – như vậy địa lan Kiếm đã nở hoa phục vụ các vị lão thành rồi, can chi phải lo lắng hoa lan nở cho ai!
Người Việt Nam cũng yêu quý lan lắm chứ:
Yêu mình một, quý lan mười
Chỉ một lần ngắm, trọn đời ngẩn ngơ.
Yêu lan lắm, quý lan nhiều nên người ta cũng trách lan như trách người yêu:
Hương lan, người ngọc hay lơ lững!
Chợt có rồi không đến ngỡ ngàng!
Gần đây có một nhận xét khá hay, người nào có thú chơi lan cũng trẻ hơn lên:
Ai đã mê lan chẳng thấy già
Vị nào cũng trẻ, ngỡ mười ba.
Nói vậy là nói quá – nói cho vui thôi
Sắc mầu tươi thắm, lan sau trước
Hương ngát quanh năm, mãi chẳng già.
Về mặt tâm lý, người cao tuổi chơi lan luôn luôn thấy những bông hoa lan này đang rực rỡ, nhưng lại có các nụ lan kia sắp nở – và rồi người ta mong đợi ngày mai, không sợ ngày mai, không còn thấy những chuỗi ngày dài lê thê buồn, vì luôn luôn có lan nở và lan sắp nở bên mình.
Cho đến nay ở Hà Nội, địa lan Kiếm chỉ chiếm chừng 10% trong các vườn lan (30% là phong lan rừng, 60% là phong lan lai đã được nuôi trồng công nghiệp hoá). Việc nghiên cứu nhân giống và nuôi trồng công nghiệp hoá địa lan Kiếm còn quá chậm nên các loài hoa này rất đắt. Một chậu Thanh Ngọc (5 thân, 3 giò hoa) đắt bằng 100 chậu phong lan Hoàng Thảo lai, hoặc 50 chậu phong lan Hồ Điệp lai.
Chúng ta mong rằng các nhà thực vật nghiên cứu về lan nhanh chóng làm cho mọi người Việt Nam đều có thể chiêm ngưỡng tất cả cái đẹp, cái quý của địa lan Kiếm truyền thống Việt Nam như: Thanh Ngọc, Hoàng Vũ, Thanh Trường, Đại Mặc, Trần Mộng, Tứ Thời hay Bạch Ngọc đại Kiều, Tiểu Kiều v.v…
Đức Khổng Phu Tử (551-497 trước Công nguyên) đã lấy khí tiết của địa lan Kiếm, dù ở thâm sơn cùng cốc mà vẫn toả hương khoe sắc, để răn dạy các bậc quân tử phải gắng tu thân. Các nhà văn hoá lớn ở các triều đại Trung Quốc cũng rất ca ngợi lan như: Khuất Nguyên, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy, hay các vị Hoàng đế như Khang Hy đến các nhà cách mạng gần đây như Chu Đức, Trương Học Lương, Đổng Tất Vũ, Trần Nghị cũng làm nhiều bài thơ ca ngợi địa lan Kiếm.Lan Kiếm (Cymbidium) là một chi trong họ Lan. Lan Kiếm có những loài bám trên cây, chúng ta gọi là phong lan Kiếm (Epiphytic Cymbidium) và có những loài mọc trên đất, được gọi là địa lan Kiếm (Terrestrial Cymbidium).
– Lá lan hẹp bản, dài, lả lướt, đầu nhọn.
– Ba cánh đài của hoa xoè rộng, hai cánh hoa hơi úp lại, che phía trên của nhuỵ hoa. Cánh môi thường cong, có điểm các màu.
– Cành hoa thẳng từ dưới lên, có loài lan cành hoa không cao hơn đám lá, nhưng nhiều loài hoa cao hơn đám lá.
– Hoa nở khá bền (từ 10 đến 30 ngày) nhiều loài hoa rất thơm nhưng dịu, không hắc như nhiều loài hoa khác.
Cuốn sách về lan đầu tiên của loài người là cuốn Kim Chương Lan Phổ của Triệu Thời Khang viết vào năm 1233 mô tả 30 loài địa lan Kiếm, chủ yếu là Mặc lan.
Cũng vào thời kỳ này Triệu Mạnh Kiên đã vẽ Xuân Lan Đồ (hiện còn được gìn giữ tại Viện Bảo tàng Cố cung Bắc Kinh).
Địa lan Kiếm sống ở các thảm rừng núi chủ yếu là ở 16 tỉnh miền Trung và Nam Trung Quốc, vô cùng phong phú. Các nhà khoa học phân loại thành 28 loài trong đó chỉ có 11 là các loài lan Kiếm mọc trên đất (địa lan Kiếm). Tuy vậy chỉ có 6 loài được tôn vinh và chăm sóc như Quốc hoa: Xuân lan (Cymbidium Goeringii), Xuân Kiếm (Cym Longibracteatum) Kiến Lan (Cym. Ensifolium), Mặc lan (Cym Sinense), Hàn lan (Cym Karan).
Điều đáng chú ý nhất là các sách báo Trung Quốc viết về lan, chỉ chú trọng đến địa lan Kiếm, rất ít sách nói đến các loài lan khác. Trong mười năm gần đây mới có sách viết về các giống phong lan lai đã nuôi trồng công nghiệp hoá như: Hồ điệp, Hoàng thảo, Cát lan.
Các loài địa lan Kiếm mọc trong rừng sâu, được tuyển lựa đưa về các vườn Thưởng uyển do các “Lan quan” chăm sóc. Sau đến dinh các vị quan lại, các mảnh vườn của các nhà văn hoá lớn, các nhà giàu có, dần dần thành một ngành trồng trọt trong dân, bên cạnh một ngành săn lùng lan trong rừng sâu, núi cao.
Sách hướng dẫn nuôi trồng, phân loại, săn tìm và thưởng thức địa lan Kiếm được viết liên tiếp từ đời này sang đời khác và được bổ sung không ngừng. Ngày nay không kể các sách viết về lan ở Trung ương mà các địa phương cũng viết rất nhiều sách về địa lan Kiếm. Nghệ thuật chụp ảnh hoa lan đạt tới trình độ cao nên ảnh trong sách rất đẹp.
Nền giáo dục cổ xưa của Trung Quốc và các nước Đông Á như: Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam thường uyên thâm, trừu tượng, liên tưởng sâu sắc từ một sự kiện cụ thể, nhỏ nhoi nhưng bao giờ cũng đi tới những hiện tượng to lớn hơn nhiều:
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ tận tri thu
(Một chiếc lá ngô đồng rơi, cả thiên hạ đều cảm thấy mùa thu).
Do đó các sách viết về địa lan Kiếm đều khá chú ý đến hướng dẫn chiêm ngưỡng lan và giới thiệu các lời nói của các vị hiền triết cùng với các bài thơ hay nhất nói về lan của các nhà văn hoá nổi tiếng.
Người ta phân biệt rõ hai hoạt động: chăm sóc lan là các hoạt động lí trí mang tính khoa học kỹ thuật, nhưng thưởng thức lan là hoạt động mang tính nghệ thuật, thẩm mỹ, tình cảm. Thường người ta hiểu thưởng thức địa lan Kiếm trong 4 chữ:
* Hương, Sắc, Tư, Vận
– Hương lan Kiếm được tôn là Vương giả chi hương, thiên hạ đệ nhất hương, hương thanh, không hắc, nhưng đậm đà, khó quên, thoắt ẩn thoắt hiện, như gần như xa.
– Mầu sắc của hoa lan là mầu sắc của 3 cánh đài, của 2 cánh hoa, của cánh môi, của họng hoa, của lá. Thiên nhiên đã vô cùng tỉ mỉ tuyển lựa mầu, tô vẽ cho các phần của hoa rất phong phú, nhưng thanh nhã không quá sặc sỡ.
– Tư là dáng vẻ của cây địa lan Kiếm được đánh giá thanh cao cốt cách, phong độ hiên ngang, nhưng vẫn rung rinh trước gió, hài hoà giữa cương và nhu.
– Vận là chỉ ý vị của địa lan Kiếm, đây là điều tự hào nhất của tất cả các dân tộc Đông Á – Chiêm ngưỡng lan dần dần sẽ tự thấy có sự thống nhất cái đẹp bên ngoài của cây lan với “cái thần” thẳm sâu bên trong, hình thành sự liên tưởng chặt chẽ sâu sắc, cửa sổ trí tuệ văn hoá như được mở rộng, khơi thông thế giới tinh thần, hướng tới Chân-Thiện-Mỹ.
Địa lan Kiếm đã chiếm vị trí độc tôn hàng nghìn năm trong văn hoá của người Đông Á, nhất là ở Trung Quốc, nên sự tuyển lựa và chăm sóc rất tinh vi đã hình thành các quan điểm, các học thuyết về thẩm định lan.
Quan điểm địa lan Kiếm là “Bách hoa chi anh” nên phải có sự kết hợp của hoa lan với nhiều loài hoa quý khác. Bằng các sự tuyển lựa chăm sóc đặc biệt nên hình thành rõ rệt bốn chủng lan có các cánh đài từ hình lá trúc tới hình cánh hoa sen, cánh hoa thuỷ tiên và cánh hoa mai. (Hình 1)
Quan điểm vật dĩ hy vi quý (vật hiếm được quý trọng) các giống lan có biến dị được quý hơn vì hiếm có.
– Biến dị về vị trí cánh đài ở hai bên được gọi là vai (Hình 2)
– Biến dị về lá, lá ngắn đi, có viền ở mép đầu lá, có viền ở mép từ gốc tới đầu, lá có các đốm – thường là viền có mấu trắng hoặc ngà. (Hình 3).
– Biến dị về hoa, hoa có nhiều cánh, hoa có 3 cánh môi.
– Quan điểm về thẩm định mầu sắc.
Luận về ý nghĩa mầu sắc của hoa lan được ghi rõ như sau:
Mầu trắng: thanh khiết, trang nhã, cao quý.
Mầu trắng ngà: dịu dàng, thanh cao, duyên dáng
Mầu hồng, màu đỏ: rực rỡ, nồng nhiệt, may mắn.
Mầu lục: thanh tân, tao nhã, sống động, hấp dẫn.
Mầu tía: yêu kiều, đằm thắm, dịu dàng, chân thành
Mầu tím: thanh cao, đằm thắm, mộng mơ.
Mầu vàng: trong sáng, thần bí, kiêu sa, thanh nhã.
Mầu hồng đỏ: huy hoàng, hào hoa.
Mầu đen: tráng lệ, uy nghiêm, thần bí, độc đáo.
Nhiều mầu: sặc sỡ, phồn vinh – hoa lệ.
Pha lê trên cánh hoa (và trên lá): Kỳ diệu, lung linh, cao quý, trong sáng, ngọc ngà.
Bảng phân loại lan theo các quan điểm trên.
Mục | Loại nhất | Loại nhì | Loại thường | Không xếp loại |
Mùi hương | Thanh, đậm, bền | nhẹ, ít bền | Nhạt lạ | Không có hương |
Hình cánh đài cánh hoa | Cánh hoa mai | Cánh hoa sen | Cánh hoa thuỷ tiên | Lá trúc |
Tư thế vai | Vai bình | Vai bay | Vai xuôi | Vai rủ |
Mầu sắc | Trắng, lục nhạt, pha lê | Lục xẫm, cánh trả, hồng đào | Da cam, đỏ xẫm | Tím đen, nâu đỏ |
Dáng lá | Rủ vừa | Dựng vừa | Dựng đứng | Rủ cong |
Cánh môi | Lưỡi đại như ý tròn to | Tiểu như ý | Lưỡi quăn, lưỡi nhọn | Quăn nhiều, quăn treo dài |
Gần đây nhiều nhà nghiên cứu về thẩm định lan đưa ra việc gắn sao cho các giống lan – từ 1 sao đến 5 sao, từ lương phẩm (loại thường) đến giai phẩm, quý phẩm – cao quý phẩm cuối cùng là cực phẩm (tinh phẩm).
Các loại được xếp cực phẩm thường có nhiều biến dị về hoa và về lá và được gọi là lan nghệ thuật.
Nhiều sách của Trung Quốc cũng giới thiệu và đánh giá khá chi tiết về các giống lan ở Đài Loan, Nhật Bản và Triều Tiên.
Có 4 dòng Xuân lan nổi tiếng của Trung Quốc và người Nhật cũng ca ngợi các loài này là Tứ đại Thiên Vương của Quốc hoa Nhật. Người ta cũng so sánh thấy Xuân lan của Trung Quốc thơm hơn Xuân lan Nhật Bản, nhưng màu sắc Xuân lan của Nhật Bản lại phong phú hơn, có giống mầu vàng, màu tím, mầu đỏ, màu trắng hoặc đa sắc.
Cho đến nay hàng ngàn giống địa lan Kiếm của Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc đã được đạt tên trên cơ sở: loài lan, cánh đài giống hoa sen, hoa mai, hay hoa thuỷ tiên, mầu sắc, địa phương đặc biệt có loài hoa đó, hoặc một đặc điểm riêng Huệ lan hoàng thuỷ tiên, (Huệ lan cánh hoa thuỷ tiên mầu vàng). Liên biện lan Vân Long Hoàng hà – (Lan cánh sen vàng, rồng vần mây).
Địa lan Kiếm, có cành hoa thẳng, lá lan dài lả lướt rất thích hợp với nét vẽ mực mài bút lông nên các hoạ sỹ Đông Á tha hồ múa bút để biểu đạt lý tưởng và tình tứ, hình dáng và tinh thần gắn liền nhau, ý nghĩa rất sâu sắc.
Trong nhóm Bát quái Dương Châu (Trung Quốc) đặc biệt là Trịnh Nhiếp (tự là Bản Kiều) đã dành 50 năm của cuộc đời để vẽ về địa lan Kiếm (và tre trúc) để lại cho đời những tác phẩm rất quí giá.
Địa lan Kiếm phát triển tốt ở nhiệt độ từ 10°C đến 30°C. Đặc biệt chúng cần đêm lạnh xuống dưới 15°C và ban ngày trên 25°C để hình thành mầm hoa. Do đó chỉ ở phía Bắc của Việt Nam mới có thú chơi địa lan Kiếm.
Người nổi danh nhất trong giới chơi lan của Việt Nam là vua Trần Anh Tông (thế kỷ XIII) có Ngũ Bách Lan Viên “Vườn 500 chậu lan”. Các loài địa lan Kiếm tồn tại trong các thảm rừng ở Việt Nam tới ngày nay chỉ có 5 loài, có tên khoa học: Cymbidium Cyperifolium, Cym Ensifolium, Cym Insigne, Cym Lancifolium và Cym Sinense. Chúng bao gồm các giống lan có mầu tím sẫm, màu lục, mầu trắng, mầu vàng v.v… như: Đại Mặc, Hoàng Vũ, Thanh Trường, Bạch Ngọc v.v…
Địa lan Kiếm hoa nhỏ và không rực rỡ, hương thơm dịu nên chưa thực hấp dẫn nhiều người dân Việt Nam như hoa hồng, hoa sen, hoa huệ, hoa cúc. Vì vậy các tao nhân mặc khách yêu lan thường tự hào với nhau về câu nói cổ xưa:
Thức giả thị bảo, Bất thức giả thị thảo
Biết thì quý như báu vật – không biết thì coi như cây cỏ.
Cũng lý do đó địa lan Kiếm không phải là loài cây hoa mang tính hàng hoá như: cúc, sen, hồng, huệ v. v… Mỗi gia đình yêu lan chỉ trồng độ 5, 10 chậu, sớm chiều nâng niu chăm sóc. Khi có hoa nở lại tụ họp, trà quý, rượu ngon, những bài thơ hay được mang ra bình phẩm thâu đêm. Địa lan Kiếm là vật biếu, quà tặng rất quý giá.
Các bài tạp văn, tuỳ bút của Phạm Đình Hổ, của Nguyễn Tuân còn nói rõ thú chơi lan rất trang nhã của các nho sỹ Việt Nam thời xưa.
Tâm lý thích truyền thống, không ca ngợi biến dị nên có lẽ các giống địa lan Việt Nam còn giữ nguyên gốc tự nhiên như cánh hoa lá trúc, lá một màu lục biếc – Vài giống có biến dị về lá như Mặc biên (có viền ở lá) không quý bằng Đại mặc hoặc Ngân biên, Kim biên có viền trắng, viền vàng ở mép lá, không quý bằng Bạch Ngọc Đại Kiều v.v…
Tuy vậy có một số người chịu ảnh hưởng của các lan hữu Trung Quốc như ca ngợi Vai bằng, Vai bay hơn vai xuôi.
Nhưng sự biến dị về hoa như cả 3 cánh hoa đều biến thành cánh môi, hoặc hoa có rất nhiều cánh thì hoàn toàn không được chấp nhận. Phải chăng vì nỗi đau của cả dân tộc Việt Nam chịu đựng sử huỷ hoại của chất độc da cam làm biến dạng con người và cây cỏ nên không ưa các hoa lan biến dị được coi là quái gở.
Kiến lan (Cym Emsifilium) được đưa sang Châu Âu vào đầu thế kỷ 18. Người chơi lan Châu Âu không ưa địa lan Kiếm, chê là hoa nhỏ, màu xỉn, hương thơm gia vị. Thái độ này khác hẳn với sự nồng nhiệt đón tiếp các giống Cát lan từ Nam Mỹ tới hoặc lan Hài hồng (Paphiopedilum Delenatii) đưa từ Việt Nam sang.
Nhưng các nhà thực vật lại đánh giá cao địa lan Kiếm. Vì có khoảng nhiệt độ sống khá rộng (5°C-37°C) ít sâu bệnh và dễ lai tạo. Chính vì vậy người ta đã lai tạo ra các giống địa lan Kiếm lai, cây to hoa lớn, mầu sắc sặc sỡ, rất hợp với sở thích người Châu Âu, thích hoa được cắt cành. Người Đông Á không đón nhận các giống hoa lan lộc ngộc này.
Mặt khác, người Đông Á không bao giờ cắt cành hoa địa lan Kiếm để cắm lọ. Với quan điểm 11 tháng chơi lá, 1 tháng chơi hoa nên chậu địa lan Kiếm không có hoa vẫn là một vật trang trí lịch sự trong các phòng khách.
Trong các bài thơ về lan của Trung Quốc cũng như Việt Nam, xưa và nay có hai điều đáng nói: không có bài thơ não nùng ai oán vì liên tưởng hoa thơm chóng tàn, người đẹp thì “bạc mệnh”. Chắc vì hoa lan kiếm khá bền. Mặt khác cũng không ai buồn vì hoa lan biết nói. Nhà thơ đời Đường, Lưu Vũ Tích đã lo lắng hộ các cụ già, không còn được hưởng những cái đẹp trên đời, chỉ còn có hoa và nếu hoa biết nói
Đãn sầu hoa hữu ngữ
Bất vị lão nhân khai.
Buồn vì hoa nói lên lời
Rằng hoa chẳng nở cho người già nua
(Tản Đà dịch)
Thực ra chiêm ngưỡng hoa địa lan Kiếm cần có tâm hồn thư thái, bình tĩnh, ngồi lâu thấm thía dần dần: sắc nhã, hương dịu, dáng thanh. Điều này rất thích hợp với người cao tuổi, nhàn nhã – như vậy địa lan Kiếm đã nở hoa phục vụ các vị lão thành rồi, can chi phải lo lắng hoa lan nở cho ai!
Người Việt Nam cũng yêu quý lan lắm chứ:
Yêu mình một, quý lan mười
Chỉ một lần ngắm, trọn đời ngẩn ngơ.
Yêu lan lắm, quý lan nhiều nên người ta cũng trách lan như trách người yêu:
Hương lan, người ngọc hay lơ lững!
Chợt có rồi không đến ngỡ ngàng!
Gần đây có một nhận xét khá hay, người nào có thú chơi lan cũng trẻ hơn lên:
Ai đã mê lan chẳng thấy già
Vị nào cũng trẻ, ngỡ mười ba.
Nói vậy là nói quá – nói cho vui thôi
Sắc mầu tươi thắm, lan sau trước
Hương ngát quanh năm, mãi chẳng già.
Về mặt tâm lý, người cao tuổi chơi lan luôn luôn thấy những bông hoa lan này đang rực rỡ, nhưng lại có các nụ lan kia sắp nở – và rồi người ta mong đợi ngày mai, không sợ ngày mai, không còn thấy những chuỗi ngày dài lê thê buồn, vì luôn luôn có lan nở và lan sắp nở bên mình.
Cho đến nay ở Hà Nội, địa lan Kiếm chỉ chiếm chừng 10% trong các vườn lan (30% là phong lan rừng, 60% là phong lan lai đã được nuôi trồng công nghiệp hoá). Việc nghiên cứu nhân giống và nuôi trồng công nghiệp hoá địa lan Kiếm còn quá chậm nên các loài hoa này rất đắt. Một chậu Thanh Ngọc (5 thân, 3 giò hoa) đắt bằng 100 chậu phong lan Hoàng Thảo lai, hoặc 50 chậu phong lan Hồ Điệp lai.
Chúng ta mong rằng các nhà thực vật nghiên cứu về lan nhanh chóng làm cho mọi người Việt Nam đều có thể chiêm ngưỡng tất cả cái đẹp, cái quý của địa lan Kiếm truyền thống Việt Nam như: Thanh Ngọc, Hoàng Vũ, Thanh Trường, Đại Mặc, Trần Mộng, Tứ Thời hay Bạch Ngọc đại Kiều, Tiểu Kiều v.v…
Tên bài viết gốc: “Văn hoá thưởng thức địa lan Kiếm của người TQ và người Đông Á”; hoalanvietnam . org
Hội Lan Hà Nội
Dương Xuân Trinh
Hội Lan Hà Nội
Dương Xuân Trinh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét