Thứ Ba, 30 tháng 1, 2018

Chơi Địa lan: Dễ đâu, khi thiếu kiên tâm

Chơi Địa lan: Dễ đâu, khi thiếu kiên tâm

Địa lan là các loại lan trồng trong đất, chúng tồn tại khắp các vùng đồng bằng, trung du và miền núi nước ta. Ngoài ra còn có một số loại Địa lan được nhập từ các nước trên thế giới. Đời xưa gọi lan là vương giả lương, vì hoa lan thanh nhã bất phàm...

Tính ra, Địa lan có tới vài trăm loài, mà hiện vẫn chưa có thống kê đầy đủ. Trong số ấy, không phải loài nào cũng có hương và đều được người đời ưa chuộng. Một số loại có sắc đẹp nhưng không có hương; một số khác có hương, nhưng hoa ngắn thấp lẫn vào lá mà người xưa gọi là cỏ rả, hoặc một số loại lá lại quá to, thân cây thô cứng, nên những loại ấy đều không được coi trọng và không được xếp vào hàng quý hiếm.

Các loại lan quý hiếm thường phải có hương và đặc biệt phải nở vào đúng dịp Tết Nguyên đán. Những loại này có ở Hà Nội, một số tỉnh thành phố, hoặc ở một số triền núi như Sapa, Yên Tử, chùa Hương Tích... Thông thường, một chậu Địa lan dưới mười cành có giá từ vài trăm nghìn đến vài triệu đồng tùy loại. Và tất cả đều được trồng vào các chậu đẹp, được chăm bón, giữ gìn cẩn thận. Có thể kể một số lớn Địa lan được ưa chuộng như: Thanh Lan, Mạc Lan hay Mặc Lan, Hoàng Vũ, Cầm Tố, Hoàng Điểm, Đại Hoàng, Ngân Biên, Bạch Ngọc, Trần Mộng, Đông Lan, Tứ Thời…

Trong Thanh Lan lại có ba loại: Đại Thanh, Trường Thanh và Đoản Thanh thường nở vào dịp Tết Nguyên đán. Đại Thanh là loại có màu xanh trong như ngọc, dò hoa to có đường kính gần 1cm, dài 80cm đến 1m, có nhiều hoa trên một dò, nở từng bông một từ dưới lên trên, kéo dài ba tuần mới tàn. Cây Đại Thanh có lá dài trên 60 cm, xanh biếc, cây uốn cong mềm mại, hương thoảng và lan xa. Còn Trường Thanh lại có lá dài tương tự Đại Thanh nhưng mỏng hơn chút ít, nhìn kỹ cũng không xanh biếc bằng Đại Thanh, hoa dầy và nhỏ hơn Đại Thanh, hương thơm; dò hoa có đường kính khoảng 0,8cm, cao 70-80cm. Riêng Đoản Thanh, hoa và lá đều ngắn nhỏ hơn hai loại Đại Thanh và Trường Thanh; lá dài 40cm màu diệp lục nhạt hơn Trường Thanh, dò hoa chỉ cao khoảng trên dưới 40cm; hương tỏa lan xa.

Mạc Lan có hai loại chính là Đại Mạc và Mạc Biên, ngoài ra còn có vài loại mọc trên núi, có hương, lá dài hơn hai loại hoa trên. Đại Mạc có hoa màu nâu đen (đen nhạt); lá dầy và xanh, dài 40-50cm; dò hoa cao 50-60cm. Mạc Biên, tương tự loại Đại Mạc nhưng khác ở chỗ lá có điểm trắng ở hai mép. Các cánh hoa cũng có điểm trắng mờ. Các loại Mạc Lan đều nở vào dịp Tết Nguyên đán và có hương đậm, lan xa.

Hoàng Lan có ba loại: Đại Hoàng, Hoàng Vũ, Hoàng Điểm. Trong dòng Hoàng Điểm lại chia ra làm hai loại: Hoàng Điểm họng đỏ và Hoàng Điểm họng vàng. Hoàng Điểm họng vàng có người còn gọi là Hoàng Nhị Điểm vì cánh hoa, họng hoa có hai chấm nâu nhạt. Hoàng Điểm họng đỏ có lá dài nhưng nhỏ hơn Đại Hoàng. Dò hoa bé và thấp hơn, khi hoa nở trong họng có chấm đỏ, cành vàng. Loại này không qúy bằng loại Hoàng Điểm họng vàng xẫm. Trong ba loại Hoàng Lan thì Hoàng Vũ quý hiếm hơn cả. Hoàng Vũ có màu vàng, ngọn và cánh hoa quay theo ánh sáng cong lên như múa. Lá dài trên 40 cm, hình kiếm hơi quăn nên người ta gọi là phản kiếm. Dò hoa cao và nhỏ bằng Đoản Thanh. Đại Hoàng lá to và dài tương tự Đại Thanh nhưng mỏng và màu lá nhạt hơn, về mùa hè hơi hanh vàng. Hoa thưa, mới nở màu xanh nhạt, khi nở hết màu vàng.

Lan Cầm Tố dò hoa cao từ 1-1,2m, đường kính to trên dưới 1cm. Có nhiều bông hoa trên một dò hoa. Màu hoa xanh, họng vàng, viền trắng mờ ở trên hai mép cánh. Lá bản to hơn lá Đại Thanh, dài từ 80-100cm. Hoa nở vào dịp Tết Nguyên đán. Đặc biệt hoa thưa, mịn màng đẹp như màu tơ thiên tạo, hương thơm nhẹ nhàng hấp dẫn.

Lan Ngân Biên lá nhỏ uốn cong mềm mại, hai mép lá có viền trắng; hoa vượt cao trên lá, có hương thơm lạ; chiều dài của lá khoảng 40 cm, chiều rộng 1cm vút nhỏ dần. Hoa nở vào đầu thu. Có một loại lan giống lan Ngân Biên chỉ khác lá cứng hơn thường trổ thẳng như lưỡi lê, đó là lan Kim Biên không giá trị bằng Ngân Biên.

Lan Bạch Ngọc là loại lan có hoa trắng nở vào cuối hè, lá to và ngắn hơn Ngân Biên chút ít. Có hai loại Bạch Ngọc: Bạch Ngọc Đại Diệp và Bạch Ngọc Tiểu Diệp. Loại Đại Diệp lá và hoa to hơn so với loại Tiểu Diệp, ngoài ra còn một loại Bạch Ngọc có tên gọi Bạch Ngọc Chân Hương, hoa có chấm như tàn hương phẩy vào, loại này có củ to như củ hành ta, du nhập từ Trung Quốc sang Việt Nam từ lâu nên rất hiếm. Hoa nở vào mùa hạ, hương thơm lạ thường. Khách tới nhà vừa đến ngõ đã ngửi thấy hương lan nhẹ nhàng.

Lan Trần Mộng là loại lan có dò hoa dài, màu nâu nhạt, nở vào mùa đông sang tới đầu xuân; lá dài và to ngang với lá cầm tố nhưng thon hơn và không bóng. Đông Lan là loại lan có hoa nở vào mùa đông, lá giống lá Thanh Trường nhưng không mềm mại, uyển chuyển như Thanh Lan, hoa đốm nâu vàng. Còn lan Tứ Thời là loại lan có hoa nở bốn mùa, nhưng rộ hơn vào mùa xuân; lá nhỏ và dài như lan Kim Biên nhưng không có diềm trắng ở mép lá; màu hoa nâu nhạt hơi ngả sang vàng mờ. Hoa thấp, nhưng hương rất thơm...

Khi trồng và chăm sóc Địa lan người xưa có câu “cửu nguyệt phân lan”, tức là tháng chín tách lan để trồng và thay đất. Tuy nhiên, nếu cứ tháng chín đưa lan ra để tách thì sẽ mắc sai lầm, vì có những loại lan vào thời điểm ấy đang ra hoa hoặc mầm đang nẩy, nếu ta tách lan, phân lan để trồng sẽ bị thui chột hoa và mầm. Về nguyên tắc chung khi tách lan, trồng lan là phải chơi hết rồi mới tách nên chơi một dò hoa khoảng hai tuần là vừa phải. Nếu tách cây phải xem xét kỹ sức của lan và mầm nhú lan khỏe, mầm vươn dài khoảng mười phân (10cm) mới tách. Tháng chín âm lịch là vào cuối thu, tiết trời mát dịu, vào thời điểm này các loại lan nở vào mùa hè như: Bạch Ngọc, Ngân Biên, Kim Biên, Tứ Thời… hoa đã tàn, mầm đã già có thể tách, san tỉa, sang chậu được thuận lợi. Với các loại lan nở vào dịp Tết Nguyên đán như: Thanh Lan, Mạc Lan, Cầm Tố, Hoàng Lan… thì đây là lúc cây đang ươm nụ, thậm chí có dò chăm bón tốt nụ đã trổ dài tới năm mười phân; vì vậy không nên phân lan mà chỉ cho thêm đất và bón cho chúng. Cần chú ý tuyệt đối không tưới nước tiểu thời điểm này vì mầm còn non sẽ bị xót, ắt sẽ dễ thui.

Khi trồng Địa lan không để dí đất, úng nước hoặc bị sâu rệp, lan sẽ còi cọc không phát triển được hoặc bị phá hủy. Ta nên cho một lớp vỏ ốc ở dưới, đặt lan nhẹ nhàng, với các lá theo hướng đã định. Đất càng nhẹ, làm càng kỹ càng tốt. Lớp đất trên cùng có thể to hơn các lớp đất dưới. Phần đất ấp sát củ cao trên miệng chậu để sau một thời gian tưới, đất tụt xuống dần là vừa. Nếu đất tụt xuống dưới miệng chậu, cần xếp thêm đất cho rễ và củ được mát. Chọn chậu cần chọn các chậu thoát nước, giữ được mát cho gốc cây. Có thể chọn các loại chậu cổ, nhất là chậu sành Tầu thường là cốt xốp không bị nóng chậu không làm ảnh hưởng tới lan.

Muốn cho lan tốt, khi trồng cần làm vệ sinh, bỏ hết các rễ thân thối, cọ sạch các lá sâu rệp, tách bỏ các dò bị vàng lá; dùng đất bùn ao phơi khô tẩm đạm, nước tiểu hoặc nhào đất với bùn, với phân ủ rồi mới phơi khô. Hàng tuần tưới cho lan một, hai lần bằng nước gạo, nước tiểu pha loãng, hoặc lấy nước trong từ ốc, cá ngâm không có mùi ôi thối; cần có thuốc chống sâu rệp, tránh các tia nắng hướng tây rọi vào làm táp lá; luôn nhặt các lá rụng phủ ở các gốc để tránh không bị rệp trú ẩn. Thượng tọa Huệ Đăng, người chuyên doanh Địa lan cho hay, trồng Địa lan cần phải kinh qua việc chăm sóc cây vào ngày “trái gió, trở trời”. Lan phụ thuộc rất lớn vào thời tiết lạnh, nóng và cách bón phân. Kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố này, lan sẽ ra hoa vào đúng dịp Tết, đạt tỷ lệ 80%.

Trồng lan là một nghệ thuật, có người chơi lâu cũng chưa thuộc chúng. Chơi Địa lan cần phải biết giá trị các loại lan khác nhau. Những loại lan quý, hoa phải cao vượt trên lá, hoa to và có sắc thì càng quý; hoa lâu tàn, hương lan xa; lá nhỏ, ngắn và mềm mại; dò hoa vươn lên uyển chuyển, thanh cao.
 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét