Phân loại hoa lan Cattleya
Lan
Cattleya có vẻ đẹp đài các, kiêu sa và đặc biệt có mùi hương rất quyến
rũ đang trở thành thú chơi thượng đẳng của những người chơi lan.
Cattleya có tuổi thọ rất dài, có thể sống đến 20 - 30 năm nếu chăm sóc
tốt.
Về phương diện ngoại hình Cattleya có thể chia làm hai nhóm
1. Nhóm một lá
Mỗi cây chỉ mang một lá trên đỉnh. Nhóm này thường cho từ 1-6 hoa trên một phát hoa. Hoa rất lớn với màu sắc rất rực rỡ và thơm, ví dụ như Cattleya eldorado, gaskelliana, labiata, lueddemanniana, mendelii, mossiae, percivaliana, schroederae, trianaei, warscewiczii ..
Về phương diện ngoại hình Cattleya có thể chia làm hai nhóm
1. Nhóm một lá
Mỗi cây chỉ mang một lá trên đỉnh. Nhóm này thường cho từ 1-6 hoa trên một phát hoa. Hoa rất lớn với màu sắc rất rực rỡ và thơm, ví dụ như Cattleya eldorado, gaskelliana, labiata, lueddemanniana, mendelii, mossiae, percivaliana, schroederae, trianaei, warscewiczii ..
Thân của nhóm này cao khoảng 8-30cm, lá
thường xanh đậm dầy, dai, dài khoảng 20cm, rộng đến 7cm. Phát hoa mang
hoa rất to có thể lên đến 25cm đường kính. Cattleya labiata và trianaei
là loài tiêu biểu nhất trong nhóm với nhiều loại phụ.
Tuy nhiên bất cứ cái gì cũng đều có sự
ngoại lệ. Sự ngoại lệ ở đây là Cattleya luteola mặc dù thuộc nhóm
Cattleya Một lá nhưng lại có thân nhỏ và hoa cũng nhỏ.
2. Nhóm hai lá
Mỗi cây mang 2 hay 3 lá trên đỉnh. Nhóm này thường cho hoa nhỏ hơn và mọc thành từng cụm như Cattleya aclandiae, amethystoglossa, aurantiaca, bowringiana, harrisoniana, intermedia, leopoldii, schilleriana, skinneri, walkeriana ...
Mỗi cây mang 2 hay 3 lá trên đỉnh. Nhóm này thường cho hoa nhỏ hơn và mọc thành từng cụm như Cattleya aclandiae, amethystoglossa, aurantiaca, bowringiana, harrisoniana, intermedia, leopoldii, schilleriana, skinneri, walkeriana ...
Thân của nhóm này ốm hơn nhưng rất cao,
trung bình cây cao khoảng 60cm nhưng có loài cao đến 1,5m, mang 2 hoặc 3
lá trên đỉnh. Lá cũng nhỏ hơn, dài khoảng 20cm, màu xanh nhạt.
Phát hoa vươn cao từ một bọc xanh trên đỉnh, mang nhiều hoa có khi lên đến 15 hoa. Hoa nhỏ hơn, chỉ khoảng 10-15cm đường kính và cánh hoa cũng thường thuôn dài hơn.
Phát hoa vươn cao từ một bọc xanh trên đỉnh, mang nhiều hoa có khi lên đến 15 hoa. Hoa nhỏ hơn, chỉ khoảng 10-15cm đường kính và cánh hoa cũng thường thuôn dài hơn.
Cattleya skinneri được Bateman phân loại
và đặt tên để vinh danh nhà thám hiểm và chuyên săn lùng thực vật nổi
tiếng George Ure Skinner.
Cây thuộc loại phụ sinh trên cành cây, có khi sống trên các vách đá. Thân cao đến 50cm mang 2 lá hình bầu dục dài 10-20cm, rộng 3-6cm trên đỉnh. Phát hoa ra từ một bọc hình lá trên đỉnh các cây trưởng thành, mang 4-12 hoa màu hồng tím, lớn đến 8cm. Môi hoa hình ống loe ra với họng màu trắng kem.
Cattleya skinneri có nhiều loài phụ như trắng tuyền, hoặc trắng với họng màu tím.
Cattleya skinneri rất được các nhà lai tạo lan ưa chuộng để dùng làm giống căn bản lai tạo vì chúng rất khoẻ và mau hoa.
Cattleya hardyana là giống lai tự nhiên giữa Cattleya dowiana var aurea và Cattleya warscewiczii được tập đoàn của Hardy tìm thấy năm 1886 và đưa về Anh, khi cây trổ hoa được đặt tên của Hardy. Sau đó ở vườn ươm người ta cũng đã lai tạo giữa hai giống trên và được kết quả tương tự.
Trong thiên nhiên người ta tìm thấy khá nhiều loài Cattleya lai tạo tự nhiên như Cattleya guatemalensis được Linden và Reichenbach tìm thấy ở Guatemala, nó là kết quả của sự thụ phấn tự nhiên giữa Cattleya skinneri và Cattleya aurantiaca. Sau đó ít lâu ở Honduras, Ames và Correll tìm thấy một giống Cattleya mà họ đặt tên là Cattleya pachecoi, thực chất nó chính là Cattleya guatemalensis.
Hoặc như Cattleya brasiliense là giống lai tự nhiên giữa Cattleya bicolor và Cattleya harrisoniana.
Cây thuộc loại phụ sinh trên cành cây, có khi sống trên các vách đá. Thân cao đến 50cm mang 2 lá hình bầu dục dài 10-20cm, rộng 3-6cm trên đỉnh. Phát hoa ra từ một bọc hình lá trên đỉnh các cây trưởng thành, mang 4-12 hoa màu hồng tím, lớn đến 8cm. Môi hoa hình ống loe ra với họng màu trắng kem.
Cattleya skinneri có nhiều loài phụ như trắng tuyền, hoặc trắng với họng màu tím.
Cattleya skinneri rất được các nhà lai tạo lan ưa chuộng để dùng làm giống căn bản lai tạo vì chúng rất khoẻ và mau hoa.
Cattleya hardyana là giống lai tự nhiên giữa Cattleya dowiana var aurea và Cattleya warscewiczii được tập đoàn của Hardy tìm thấy năm 1886 và đưa về Anh, khi cây trổ hoa được đặt tên của Hardy. Sau đó ở vườn ươm người ta cũng đã lai tạo giữa hai giống trên và được kết quả tương tự.
Trong thiên nhiên người ta tìm thấy khá nhiều loài Cattleya lai tạo tự nhiên như Cattleya guatemalensis được Linden và Reichenbach tìm thấy ở Guatemala, nó là kết quả của sự thụ phấn tự nhiên giữa Cattleya skinneri và Cattleya aurantiaca. Sau đó ít lâu ở Honduras, Ames và Correll tìm thấy một giống Cattleya mà họ đặt tên là Cattleya pachecoi, thực chất nó chính là Cattleya guatemalensis.
Hoặc như Cattleya brasiliense là giống lai tự nhiên giữa Cattleya bicolor và Cattleya harrisoniana.
Các giống hoa lai nhân tạo của Cattleya
Giống Cattleya lai nhân tạo đầu tiên là
Cattleya Hybrida được tập đoàn Veitch đăng ký bản quyền ngày 1/1/1863.
Cattleya Hybrida được nhân giống giữa Cattleya guttata và Cattleya
loddigesii.
Đến nay người ta đã lai tạo ra hàng ngàn
giống Cattleya đủ mọi hình dáng và màu sắc, trong đó rất nhiều giống đã
được các nước in lên tem.
Cattleya Carpa = C labiata x C amethystoglossa
Cattleya Francis = C Bow Bells x C Swan
Cattleya Fabia = C labiata x C dowiana
Cattleya Frasquita = C velutina x C bicolor
Người ta không những lai tạo các giống Cattleya mới trong cùng một chi mà còn lai chúng với các chi hoa khác trong cùng một phả hệ như Laelia, Brassavola, Sophronitis ..
Cattleya x Brassavola = Brassocattleya (thường được viết tắt là BC)
Cattleya x Laelia = Laeliocattleya (LC)
Cattleya x Sophronitis = Sophrocattleya (SC)
Cattleya x Schomburgkia = Schombocattleya
Không những thế, người ta còn lai 3 chi thậm chí 4 chi trong cùng một phả hệ với nhau như:
Cattleya x Brassavola x Laelia = Brassolaeliocattleya (Blc)
Cattleya x Laelia x Sophronitis = Sophrolaeliocattleya (Slc)
Cattleya x Brassavola x Laelia x Sophronitis = Potinara (POT)
Hoặc có những tổ hợp lai phức đến đáng kinh ngạc như SLC Estella Jewell được lai tạo qua rất nhiều thế hệ của 16 chi loài khác nhau.
Cattleya Carpa = C labiata x C amethystoglossa
Cattleya Francis = C Bow Bells x C Swan
Cattleya Fabia = C labiata x C dowiana
Cattleya Frasquita = C velutina x C bicolor
Người ta không những lai tạo các giống Cattleya mới trong cùng một chi mà còn lai chúng với các chi hoa khác trong cùng một phả hệ như Laelia, Brassavola, Sophronitis ..
Cattleya x Brassavola = Brassocattleya (thường được viết tắt là BC)
Cattleya x Laelia = Laeliocattleya (LC)
Cattleya x Sophronitis = Sophrocattleya (SC)
Cattleya x Schomburgkia = Schombocattleya
Không những thế, người ta còn lai 3 chi thậm chí 4 chi trong cùng một phả hệ với nhau như:
Cattleya x Brassavola x Laelia = Brassolaeliocattleya (Blc)
Cattleya x Laelia x Sophronitis = Sophrolaeliocattleya (Slc)
Cattleya x Brassavola x Laelia x Sophronitis = Potinara (POT)
Hoặc có những tổ hợp lai phức đến đáng kinh ngạc như SLC Estella Jewell được lai tạo qua rất nhiều thế hệ của 16 chi loài khác nhau.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét