Lan rừng hoại sinh khoe sắc Didymoplexiopsis khiriwongensis
Loài
Didymoplexiopsis khiriwongensis có thân cao 5–15 cm, mang 2 hoặc 3 lá
bắc màu nâu xỉn. Thân rễ củ hình thoi, dài 5–6 cm, đường kính khoảng
3–10 mm. Trục mang mang một vài hoa, dài 5–10 mm. Lá bắc hoa hình tam
giác, nhọn, dài 1.5–2 mm. Hoa màu trắng
Chi Lan Didymoplexiopsis có duy nhất một loài là D. khiriwongensis được Seidenf. mô tả năm 1997 tại Miền Nam Thái Lan. Tuy nhiên chúng lại có phân bố khá rộng, từ Thái Lan, Đông Nam Trung Quốc đến vùng Đông Dương. Chi này có nhiều đặc điểm giống với chi Didymoplexis và Didymoplexiella về hình dạng cây và hoa.
Chúng là loài địa lan không lá, không diệp lục, dạng cỏ có củ. Củ nằm ngang hoặc nghiêng trong lòng đất, hình thoi hoặc hình trụ, bề mặt có nhiều mụn cơm. Thân đơn trục, đứng và mảnh, mang một vài rễ nhỏ và một vài lá bắc thưa thớt ở gốc. Cụm hoa xim đơn ở chót thân mang một vài hoa, và các lá bắc hoa nhỏ dạng tam giác. Các hoa không lộn ngược, nở rất to và nở liên tiếp lần lượt, màu trắng, có hai môi, rất mau tàn. Hoa có các lá đài và tràng hợp ở gốc khoảng 1/3, không hợp với lá đài bên. Lá đài bên hợp hợp với nhau khoảng 1/2 chiều dài. Môi tách rời khỏi lá đài và tràng, không có cựa.
Loài Didymoplexiopsis khiriwongensis có thân cao 5–15 cm, mang 2 hoặc 3 lá bắc màu nâu xỉn. Thân rễ củ hình thoi, dài 5–6 cm, đường kính khoảng 3–10 mm. Trục mang mang một vài hoa, dài 5–10 mm. Lá bắc hoa hình tam giác, nhọn, dài 1.5–2 mm. Hoa màu trắng, thơm lịm, môi mặt phía dưới điểm các đốm màu vàng-da cam. Cuống hoa và bầu dài 0.5–1.5 cm, màu nâu tối. Lá đài lưng và cánh hoa hình trứng đến hình trứng hẹp, dài 7–13 mm, rộng 3–5 mm, tù. Lá đài bên hình trứng, dài 10–13 mm, rộng 4 mm, tù. Môi linh động, hợp với cột, dạng hình chữ nhật rộng, dài 5–6 mm, rộng 11–12 mm, có 3 thuỳ rõ ràng, mép của thuỳ bên răng cưa, thuỳ giữa hơi có khía. Có thể chai lớn ở gốc của môi được bao phủ bởi nhiều mụn cơm màu xám-ô liu, phần giữa môi thường có một vài lông, tua. Ra hoa vào tháng 3-5 hàng năm. Chúng rất hiếm gặp và được đề nghị tình trạng bảo tồn ở mức Dễ bị tổn thương VU.
Loài này mọc trong rừng rậm nguyên sinh hoặc thứ sinh cây lá rộng hoặc hỗn hợp rừng thường xanh ở trên nhiều loại đất, nơi có độ cao từ 100 đến 1600 m so với mực nước biển. Ở Việt Nam chúng phân bố ở nhiều tỉnh miền Trung như Hà Tỉnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và Khánh Hoà.
Hoa của Didymoplexiopsis khiriwongensis thông thường chỉ tồn tại được vài giờ vào buổi sáng, chính vì lẽ đó mà nó rất dễ dàng bị bỏ qua trong các đợt nghiên cứu thực địa. Hơn nữa chúng thường mọc rải rác, thường lẫn mới màu lá khô hoặc đất, và kích thước nhỏ nên cũng khó nhận biết. Quý vị đã gặp chúng ở đâu rồi?
Chi Lan Didymoplexiopsis có duy nhất một loài là D. khiriwongensis được Seidenf. mô tả năm 1997 tại Miền Nam Thái Lan. Tuy nhiên chúng lại có phân bố khá rộng, từ Thái Lan, Đông Nam Trung Quốc đến vùng Đông Dương. Chi này có nhiều đặc điểm giống với chi Didymoplexis và Didymoplexiella về hình dạng cây và hoa.
Chúng là loài địa lan không lá, không diệp lục, dạng cỏ có củ. Củ nằm ngang hoặc nghiêng trong lòng đất, hình thoi hoặc hình trụ, bề mặt có nhiều mụn cơm. Thân đơn trục, đứng và mảnh, mang một vài rễ nhỏ và một vài lá bắc thưa thớt ở gốc. Cụm hoa xim đơn ở chót thân mang một vài hoa, và các lá bắc hoa nhỏ dạng tam giác. Các hoa không lộn ngược, nở rất to và nở liên tiếp lần lượt, màu trắng, có hai môi, rất mau tàn. Hoa có các lá đài và tràng hợp ở gốc khoảng 1/3, không hợp với lá đài bên. Lá đài bên hợp hợp với nhau khoảng 1/2 chiều dài. Môi tách rời khỏi lá đài và tràng, không có cựa.
Loài Didymoplexiopsis khiriwongensis có thân cao 5–15 cm, mang 2 hoặc 3 lá bắc màu nâu xỉn. Thân rễ củ hình thoi, dài 5–6 cm, đường kính khoảng 3–10 mm. Trục mang mang một vài hoa, dài 5–10 mm. Lá bắc hoa hình tam giác, nhọn, dài 1.5–2 mm. Hoa màu trắng, thơm lịm, môi mặt phía dưới điểm các đốm màu vàng-da cam. Cuống hoa và bầu dài 0.5–1.5 cm, màu nâu tối. Lá đài lưng và cánh hoa hình trứng đến hình trứng hẹp, dài 7–13 mm, rộng 3–5 mm, tù. Lá đài bên hình trứng, dài 10–13 mm, rộng 4 mm, tù. Môi linh động, hợp với cột, dạng hình chữ nhật rộng, dài 5–6 mm, rộng 11–12 mm, có 3 thuỳ rõ ràng, mép của thuỳ bên răng cưa, thuỳ giữa hơi có khía. Có thể chai lớn ở gốc của môi được bao phủ bởi nhiều mụn cơm màu xám-ô liu, phần giữa môi thường có một vài lông, tua. Ra hoa vào tháng 3-5 hàng năm. Chúng rất hiếm gặp và được đề nghị tình trạng bảo tồn ở mức Dễ bị tổn thương VU.
Loài này mọc trong rừng rậm nguyên sinh hoặc thứ sinh cây lá rộng hoặc hỗn hợp rừng thường xanh ở trên nhiều loại đất, nơi có độ cao từ 100 đến 1600 m so với mực nước biển. Ở Việt Nam chúng phân bố ở nhiều tỉnh miền Trung như Hà Tỉnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và Khánh Hoà.
Hoa của Didymoplexiopsis khiriwongensis thông thường chỉ tồn tại được vài giờ vào buổi sáng, chính vì lẽ đó mà nó rất dễ dàng bị bỏ qua trong các đợt nghiên cứu thực địa. Hơn nữa chúng thường mọc rải rác, thường lẫn mới màu lá khô hoặc đất, và kích thước nhỏ nên cũng khó nhận biết. Quý vị đã gặp chúng ở đâu rồi?
Thông tin liên hệ:
Website: http://Vuonhoalan.net
Website: http://Vuonhoalan.net
Fanpage: https://www.facebook.com/vuonhoalan
Blog: https://vuon-lan.blogspot.com/
0 nhận xét:
Đăng nhận xét