Loài
sống hoại Gastrodia theana, không lá cụm hoa mọc từ củ cao 6 cm. Hoa từ
5 - 8 chiếc cụp lại , màu nâu bạc cuống hoa có lông mềm, cánh môi màu
nâu, hoa nở vào tháng 3 - 4 hàng năm.
Tên Việt Nam: Lan hoại trung bộ
Tên Latin: Gastrodia theana
Đồng danh: Gastrodia theana Avery.sp nov.
Họ: Phong lan Orchidaceae
Bộ: Phong lan Orchidales
Lớp (nhóm): Lan đất
Có
lẽ Lan là họ có số lượng loài nhiều nhất trong số các loài thực vật có
hoa. Trên thế giới có khoảng hơn 25.000 loài trong họ này đã xác định
được tên. Ở Việt Nam đã ghi nhận khoảng gần 1200 loài. Không chỉ chúng
đa đạng về số lượng mà còn đa dạng về môi trường sống như có loại leo
trên cây gọi là Phong Lan, có loại bám trên đá gọi là Thạch Lan, có loại
mọc trên đất gọi là Địa Lan. Hay sự đa dạng về hình dạng cây như có
loại thân to như Phaius, Cymbidium..., có loại lan ruồi, muỗi như
Schoenorchis, Porpax... Không chỉ có thế, có những loại Lan mà cả thời
gian tồn tại không hề có lá. Chúng ta chỉ có thể quan sát được chúng khi
chúng ra hoa. Đa số trong số chúng có dạng thân củ hoặc thân rễ, đây là
nguồn dinh dưỡng chính cung cấp cho quá trình ra hoa.
Chi lan Gastrodia trên thế giới có khoảng 40 loài, ở Việt Nam có khoảng 6
loài đó là G. foldosa, G. major, G. punctata, G. taiensis, G theana và
G. tonkinensis. Các loài trong chi này đều không lá, có thân rễ phình
lên thành củ và mọc hoa trên mặt đất. Trung Quốc gọi các loài trong chi
này là Thiên Ma, được dùng để trị tăng huyết áp, cải thiện lưu thông và
giải quyết cơn đau đầu. Chúng còn thiếu tên phổ thông cũng như công dụng
trong y học cổ truyền Việt Nam.
Gastrodia
theana được Averyanov mô tả vào năm 2005, các mẫu vật được thu từ tỉnh
Thừa Thiên Huế của Việt Nam (Gastrodia theana and New orchids from
Vietnam). Đây là loài lan hoại sinh không diệp lục, không lá, mọc trên
đất mùn. Chúng có thân rễ nạc phình lên dạng củ, màu nâu xám, dài khoảng
2-4 cm, đường kính thiết diện củ khoảng 4-8 mm. Thân mọc thẳng và nạc,
đứng hoặc hơi cong, có màu trắng đến nâu-vàng sáng. Thân cao 2,5-5 cm,
dày 2-4 mm và mang 2-3 lá bắc hình trứng rộng tù. Lá bắc dài 3-5 mm,
rộng 2-4 mm và có rất nhiều vảy nhỏ hẹp ở sát gốc. Chùm hoa ở chót thân
mang 3-8 hoa mọc sát nhau. Lá bắc hoa màu trắng đến nâu-vàng sáng, hình
trứng, tròn đến tù, dài 2-5 mm, rộng 1.5-2 mm. Cuống hoa dài 3-5 mm, bầu
dài 2-2.5 mm, dầy, màu trắng đến nâu-hồng sáng. Hoa có hình dạng cái
chuông, hầu như không mở, nạc, ở mặt bụng ít nhiều phẳng. Hoa có thể tồn
tại hơn một ngày. Các lá đài và cánh uốn cong kết hợp với môi, không
bao giờ xoè ra. Lá đài và cánh hoa sần sùi như mụn cóc ở mặt ngoài, cong
hình thuyền và phát triển ra thành mũi. Lá đài màu trắng đến nâu-hơi
hồng sáng, hình dạng khá giống nhau, hình trứng thuôn, dài 0.8-1.5 cm,
rộng 3.5-5 mm, kèm theo là mũi rất nạc, tù. Các lá đài hợp với nhau.
Cánh hoa màu hồng thịt cá hồi, rất nhỏ, đôi khi không nhìn thấy, ngắn
hơn đài hoa. Chúng có hình tam giác hẹp, dài 0.4-0.8 mm, rộng 0.2-0.3
mm. Môi hoa màu xanh lá cây với đỉnh và gốc màu đỏ-hồng tươi, có 5 gân
dài 3.5-4 mm, rộng 2.5-3 mm, gốc môi hình tim.
Gastrodia theana có mùa ra hoa vào tháng 3-4 hàng năm trong các khu rừng
rậm nguyên sinh cây lá rộng ở đất thấp trên đá phiến sét và đá cát có
độ cao từ 300 đến 400 m trên mực nước biển. Đây là loài lan rất hiếm và
được coi là đặc hữu của tỉnh Thừa Thiên Huế cũng như của Việt Nam. Tuy
nhiên gần đây đã có ghi nhận phân bố ở Đài Loan vào năm 2012 (Gastrodia
theanaAver. (Orchidaceae) a Newly Recorded Species from the Central
Taiwan)
Về mặt hình thái loài này rất giống với loài Gastrodia verrucosa Blume
có phân bố ở Nhật Bản, Malacca, Sumatra và Java. Nhưng chúng được phân
biệt rõ ràng bởi lá đài rất nhỏ, cứng, hình tam giác hẹp và gốc môi hình
tim. Tên của Gastrodia theana được đặt kỉ niệm tác giả bài viết này
(Phạm Văn Thế) và Anna L. Averyanova.
Theo biodivn
Tên Việt Nam: Lan hoại trung bộ
Tên Latin: Gastrodia theana
Đồng danh: Gastrodia theana Avery.sp nov.
Họ: Phong lan Orchidaceae
Bộ: Phong lan Orchidales
Lớp (nhóm): Lan đất
Mô tả: Loài sống hoại, không lá cụm hoa mọc từ củ cao 6 cm. Hoa từ 5 - 8
chiếc cụp lại , màu nâu bạc (mô tả theo hình) cuống hoa có lông mềm,
cánh môi màu nâu, hoa nở vào tháng 3 - 4 hàng năm.
Phân bố: Loài đặc hữu của Việt Nam, cây mọc chủ yếu ở miền trung Thừa
thiên Huế. Đây là loài mới ở Việt Nam do L. Averyanov, A. Averyanova,
Phan Kế Lộc, Nguyễn Tiến Vinh và Phạm văn Thế phát hiện.
Mô tả loài: Trần Hợp - Phùng mỹ Trung.